Thứ Sáu, 29 tháng 4, 2016

10 Điều soi sáng cho khoa Nghiệm-Lý Tử Vi

1-Đức trọng quỷ thần kinh : Thiên Đức, Nguyệt Đức, Phúc Đức, Long Đức, Thiên Quan và Thiên Phúc.

Trong hàng ngũ các sao hiền của bản số Tử vi mỗi người, ai cũng biết, mà cũng ít ai lưu tâm đến, đó là bộ Tứ đức và bộ Quý nhân. Tánh chất của bản thiện thường là hành động trong âm thầm, không lớn lối, không vung vít như bộ hung tinh chiến lược (Lục sát). Quý vị cứ kiểm nghiệm mà xem bộ Tứ đức và lưỡng Quý nhân luôn hóa giải dễ dàng những tai ương do hai quỷ tinh Tuần và Triệt gây ra (huống hồ là Thiên Không, xá gì ). Hay nói một cách khác bộ Tứ đức và lưỡng Quý nhân không sợ sự kềm kẹp cương tỏa của Tuần trung và Triệt lộ. Ngược lại nhiều khi chính nhờ bộ Tứ đức và lưỡng quý nhân này đã chiêu hồi Tuần trung và Triệt lộ để giải tỏa các hung tinh khác. Cho nên vào đại hạn hay tiểu vận có bộ Tứ đức hay bộ Quý nhân này trấn áp, thì cứ yên tâm về sự xuất hiện của hai quỷ tinh Tuần trung và Triệt lộ, chính sao Tuần còn mở đầu cho một hạnh thông nữa là đàng khác.

2- Huyền thoại của chính diệu : Tứ Hóa

Nhiều người say mê môn Tử-vi thường có thói quen đam mê luôn bộ Tứ hóa đắc cách và cho rằng Hóa Khoa, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Kỵ (đóng ở Tứ mộ) là bốn sao thần thánh đem bóng dáng hạnh phúc lại cho mình, rồi nhiều khi quên đi cả các chính diệu hiện diện tại cung có Tứ Hóa ấy. Đây là một sự
nhầm lẫn cần phải phản tỉnh ngay : Khoa Tử-vi gắn liền với sinh hoạt nghiệm lý mà cố tử vi gia Thiên Lương đã dày công chủ trương khi còn sinh tiền, nên lúc nào cũng cần phải có sự suy luận và kiểm nghiệm tánh chất của mỗi dữ kiện. Do lẽ ấy, bốn sao Từ Hóa chỉ là bộ mặt mới mà thôi. Thí dụ tuổi Kỷ thì chính diệu Tham Lang có bộ mặt mới là Hóa Quyền, mà tuổi Ất thì Hóa Quyền lại là hậu thân của Thiên Lương. Nói cách khác, tùy theo thập can mà chính diệu thủ lãnh những vai trò mới như sau :

- Chủ về thi cử, phước lành : Hóa Khoa.
- Chủ về địa vị : Hóa Quyền.
- Chủ về tiền của : Hóa Lộc.
- Chủ về sự thầm lặng : Hóa Kỵ.

Thành ra khi thấy Tứ Hóa xuất hiện ở cung nào, ta nên hiểu rằng chính diệu đã biến ảo ra, nhận lãnh sứ mạng nói trên mà thôi. Nói cho cùng, thì không có sao Hóa Khoa, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Kỵ (hiểu theo nghĩa là những tinh đẩu riêng biệt) mà Tứ Hóa chỉ là sự biến thái của chính diệu tùy theo Thập can vậy.

3- Tha nhân là địa ngục

Trong vị trí tuần tự 12 cung trên bản số Từ-vi, cung Mệnh và cung Thiên Di luôn luôn đối mặt nhìn nhau. Đây là ý nghĩa thâm sâu của người sáng chế ra khoa nghiệm lý này : Mệnh là ta, Thiên Di là tha nhân (chứ không phải sự đi xa như nhiều sách đoán luận giải ). Đời sống là trường tranh đấu, ta muốn tồn tại thì phải ganh đua với chúng nhân trong xã hội, thế nên tha nhân vừa nhìn ta để học hỏi, vừa để đối phó. Ngược lại, ta nhìn tha nhân cũng với cung cách này. Điều kiện hòa đồng là cần, nhưng phải có sự khắc chế mới đủ nghĩa sống ở đời (lẽ mâu thuẫn lấy biến dịch làm căn bản nhân sinh), trong ý nghĩa Dịch động ấy, lấy luật Ngũ hành làm luận cứ cho sự tương giao của hai cung Mệnh & Di .

Vậy khi nào hành của cung Mệnh chế ngự được hành của cung Di thì người ấy mới mong ra đời được đắc thắng và kính nể, bằng trái lại, hành của cung Di áp đảo được hành của cung Mệnh thì rõ ràng là người ấy thường chịu nhiều thua thiệt trước thế nhân.

4- Cơn bỉ cực, hồi thái lai

Vòng Thái Tuế, khi còn sanh tiền cố Tử-vi gia Thiên lương đã dày công phu triển khai tầm quan trọng, để giúp cho người xem Tử vi nhận biết rõ đại vận hên xui. Đại cương cung nào chứa vòng Tam hạp của Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ thì Đại hạn mười năm tại cung đó là thời vận tốt.

Thí dụ Mệnh tại cung Dậu, tuổi Mẹo Âm Nam, Kim Cục, thì theo chiều nghịch ; cung Dậu 4-13, cung Thân 14-23, cung Mùi 24-33 ... Vòng Thái Tuế gác đầu 3 cung Hợi-Mão-Mùi, do đó Đại vận 10 năm từ 24-33 tuổi là lúc thịnh thời gặp nhiều may mắn của đương số. Tuy nhiên tùy theo 3 đầu cung tam hạp của Vòng Thái Tuế, nếu gặp đầu cung :

- Có sao Thái Tuế là đắc thời một cách chánh đáng.
- Có sao Quan Phù là đắc thời trong sự tính toán.
- Có sao Bạch Hổ là đắc thời trong sự làm việc thái quá vất vả.

Cho nên người xem số Tử-vi, thấy đến Đại vận nằm trong tam hợp Vòng Thái Tuế, được kể như đã tới hồi thái lai, thoải mãi. Nhưng có điểm khá cẩn trọng, nếu tiểu vận (một năm) phải đề phòng sự thiệt thòi xui rủi đưa tới :

- Tiểu vận đến cung chứa sao Thái Tuế : đáo tụng đình.
- Tiểu vận đến cung chứa sao Quan Phù : thị phi tai tiếng.
- Tiểu vận đến cung chứa sao Bạch Hổ : đau ốm tai nạn.

Tóm lại : Đại vận nằm trong tam hạp Vòng Thái Tuế là hên, may mắn (tới mức độ nào còn phụ thuộc vào nhiều các sao khác nữa !?..), nhưng 10 năm đó thì đề phòng 3 năm tiểu hạn lại lâm vào trở lại 3 cung tam hạp của Vòng Thái Tuế thì lại gặp chuyện xui rủi vậy. Đó là ý nghĩa thứ hai của hạn tam tai mà cố Tử-vi gia Thiên Lương đã dày công khám phá.

Cho nên quý vị thấy hạn Tam tai ghi trong sách :

- Tuổi Dần Ngọ Tuất : 3 năm Thân Dậu Tuất là Tam tai.
- Tuổi Thân Tý Thìn : 3 năm Dần Mão Thìn là Tam tai.
- Tuổi Tỵ Dậu Sửu : 3 năm Hợi Tý Sửu là Tam tai.
- Tuổi Hợi Mão Mùi : 3 năm Tỵ Ngọ Mùi là Tam tai.

sao lại có khi đúng có khi sai, ấy là vì lẽ trên.

5- Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong : Thế ngũ hành sinh nhập tại Tứ Sinh và Tứ Tuyệt.

Mười hai cung của bản số Tử-vi, tuy mang 12 chủ đề khác nhau nhưng chúng lại có những gắn bó kỳ lạ, nếu chịu khó luận giải luật ngũ hành của từng cung trên căn bản :

- 4 Cung Tứ Sinh : Dần, Thân, Tỵ, Hợi.
- 4 Cung Tứ Tuyệt : Tý, Ngọ, Mão, Dậu.

Ta thấy 4 cung Tứ Sinh và Tứ Tuyệt khác nhau từng đôi một :

- Cung Tỵ (Hỏa) đối lập với cung Hợi (Thủy)
- Cung Thân (Kim) đối lập với cung Dần (Mộc)
- Cung Ngọ (Hỏa) đối lập với cung Tý (Thủy)
- Cung Mão (Mộc) đối lập với cung Dậu (Kim)

Vậy khi các cung nói trên mang chủ đề gì (trong 12 chủ đề : Mệnh, Phụ, Phúc, Điền, Quan, Nô, Di, Ách, Tài, Tử, Phối, Bào) thì chúng xung khắc nhau như bản chất cung của nó.

Ví dụ : Tuổi Âm Nam, Mệnh an tại Dậu, ta có :

- Tiền bạc (cung Tỵ) khắc chế với cung Phúc Đức (cung Hợi)
- Huynh Đệ (cung Thân) không hạp với bạn bè (cung Dần)
- Nhà đất (cung Tý) không hạp với hàng con cái (cung Ngọ)
- Bản Mệnh cung (cung Dậu) bất hòa đồng với tha nhân (cung Mão)

Các sự xung khắc trên là một điều loan báo đối với đương số. Để tùy nghi chọn lựa một trong hai điều : Hoặc chọn Tiền Bạc hay chọn Phúc Đức; hoặc muốn Con Cái an toàn hay muốn Nhà đất khang trang ...

6- Tham thì thâm : Luật thừa trừ tính theo vòng Thái Tuế

Vòng Thái Tuế ngòai ý nghĩa cho biết thời may vận tốt của mười năm, nó còn cung cấp một đặc tính qúy báu khác, là tìm biết căn tính của mỗi người, cũng như thử thách của đương số trong sinh hoạt thường nhật. Ta nên để ý :

- Tuổi Âm Nam và Dương Nữ : trước khi tới thời kỳ 10 năm của Vòng Thái Tuế, đã gặp 10 năm của Vòng Thiếu Dương, Tử Phù, Phước Đức.

- Tuổi Âm Nữ và Dương Nam : lại gặp Vòng Thiếu Dương, Tử Phù, Phước Đức sau khi đã an hưởng 10 năm của Vòng Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ .

Cả hai cách trên đều cho ta thấy : Xét luật Ngũ hành thì Vòng Thiếu Dương, Tử Phù, Phước Đức ở thế lấn so với Vòng Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ.

Thí dụ :Tuổi Tuất - Dương Nam, thì Vòng Thái Tuế là Hỏa, còn Vòng của Thiếu Dương, Tử Phù, Phước Đức là Mộc, mà Mộc sinh Hỏa (có nghĩa là mình đang gặp tối đa thuận lợi, lấn tới lấy thời gian Mộc để dưỡng cái TA -Hỏa). Lợi thì có lợi thật, nhưng Luật thừa trừ đã xuất hiện, để ổn định cái bất công, cho nên khi ai bước vào thời kỳ này (Vòng Thiếu Dương) sẽ phải gặp sao Thiên Không ở cung với Thiếu-Dương, đó là nét thâm thúy và đầy nhân -văn, tính nhất của khoa Tử-vi : Ở đời không nên tham vọng, vì quá đáng sẽ gặp "Thiên-Không ở cuối đường hầm" (Hạn Thiên Không thì ai biết xem Tử-vi, đều rõ cái tai hại của nó).

7- Đời là bể khổ

Sao Thiên Mã là nghị lực của đời người nhưng còn biểu tượng cả chiếc xe đi của đương số. Nếu xét Ngũ hành của cung mà Thiên Mã đóng, với Ngũ hành của bản Mệnh, chúng ta sẽ thấy ngay những mối tương quan có tính cách cảnh cáo hay nhẹ cũng là báo trước về chiếc xe mà đương số sử dụng trong mưu sinh ở đường đời :

- Hành Mã khắc hành của bản Mệnh : Chết vì tai nạn xe cộ, bị thương nặng về tay chân ...

- Hành Mã sinh hành của bản Mệnh : Xe cộ luôn an toàn, giúp đỡ người thật đắc dụng .

- Hành Mệnh khắc hành của Mã : Xe cộ luôn ở trạng thái hư hao, gây tốn kém cho chủ .

- Hành Mệnh sinh hành của Mã : Coi chừng mất xe.

- Hành Mã đồng hành với bản Mệnh : Bình thường trong mọi chuyện xe cộ, cũng như lúc di chuyển.

Kết hợp với những sao tại Lưu Tiểu hạn và lưu Đại hạn, từ đó mà suy luận cụ thể chi tiết ra trong từng trường hợp cụ thể của bản số Tử-vi .

Thí dụ : Người tuổi Tân Tỵ (Hành Kim). Thiên Mã đóng ở cung Hợi (Thủy). Vậy tức là Mệnh Kim sinh xuất Mã Thủy, ít nhất trong đời phải mất xe một lần (dù là xe gì ... đi nữa, kể cả trường hợp mình đi mượn xe của người khác nữa !? ... Các bạn thử chiêm nghiệm xem ... ). Người Nhâm Ngọ (Mộc) có Thiên Mã đóng cung Thân thì nên cẩn thận lắm vì Mã Kim khắc Mệnh Mộc. Vai trò của sao Thiên Mã xét theo khía cảnh này, đã được nhiều người kiểm chứng, thấy hiệu nghiệm rõ ràng.

8- Chung thân đối kháng

Sao Thiên Tài trong Tử -vi quả là có vai trò độc đáo, nó luôn luôn làm điều trái ngược lại tinh thần của cung mà nó đóng. Sao Thiên Tài ví như vị Thiên Sứ có nhiệm vụ đảo ngược tình hình ở cung mà Thiên Tài phải hiện diện : nhiều sao đẹp mà gặp Thiên Tài (đồng cung) thì kể như vô dụng, mà nhiều sao xấu gặp Thiên Tài hóa ra đắc dụng. Đắc biệt những cung tiềm ẩn tính cách lượng số (như cung Huynh Đệ, Tử-Tức, Tài Bạch) thì sự hiệu nghiệm nói trên của Thiên Tài quả không sai lệch. Thành ra, điều kết luận về sao này, ta phải nhìn nhận quả là "Thiên Tài " hiếm có vậy.

9- Bản tính nhân chi sơ

Khoa Tử-vi Đẩu số, ngoài việc tiên tri các điều công danh, thọ yểu, giàu nghèo ... của mỗi con người, nó còn là khoa tâm lý thực nghiệm khá chính xác. Quý vị thích nghiên cứu trong tinh thần triết học, hãy để ý sự kiện (Đã được nghiệm lý) sau đây : Áp dụng luật tính âm-dương cho bản mệnh với cung Mệnh, là :

- Người Âm đóng cung Âm : thế lưỡng Âm nên thái quá nhu nhược, rất thâm trầm, khôn ngoan ...

- Người Dương đóng cung Dương :thế lưỡng Dương nên quá cương, rất nóng nảy đến độ hồ đồ võ phu ...

- Ngừơi Dương đóng cung Âm : có thực nhưng kín đáo nhún nhừơng, biết mình, biết người ...

- Ngừoi Âm đóng cung Dương : người sống giả tạo, nhiệt tình vay mượn ...

Ví dụ : Người Quý Mùi (Mệnh Âm) Cung Mệnh đóng tại Dần (Cung Dương), nên chưa xét đoán chi tiết, ta có ngay một ý niệm là người không có bản lãnh, biết ít mà phô trương thì nhiều, sống tạm bợ với nhiệt tình vay mượn ...

10- Thời thế tạo Anh-hùng

Tiểu hạn mỗi năm được xác định tại một cung. Người xem Tử-vi hay có thói quen lấy cung tam Hợp và cung Nhị hợp với cung lưu niên, để giải đoán vận hạn hên xui của một năm (giống như cách xem đại hạn 10 năm). Thật ra muốn tìm hiểu thời kỳ đại hạn là hay hoặc dở ta chỉ nên luận giải về vòng Thái tuế, còn tiểu hạn một năm phải bám sát các Sao ngụ trong cung lưu niên. Một năm cũng có thời kỳ riêng của mỗi hành trong Ngũ hành :
  • 2 tháng rưỡi đầu mùa Xuân : hành Mộc
  • 2 tháng rưỡi đầu mùa Hè : hành Hỏa
  • 2 tháng rưỡi đầu mùa Thu : hành Kim
  • 2 tháng rưỡi đầu mùa Đông : hành Thủy
  • 15 ngày cuối mỗi mùa : hành Thổ.
Rồi từ căn bản này, ta đối chiếu với các hành của sao trong cung lưu niên muốn xem, và phải để ý đến tính chất : sao thuộc hành nào sẽ hoạt động (giống như phiên trực của quân đội) vào thời gian của hành ấy (chứ không thể có sự hoạt động nhất loại của các sao trong suốt năm mà người đời thường chọn ngày cúng sao hạn là vì vậy).

Thí dụ : Người Mệnh Thổ, lưu niên tại cung Tý có các sao :
  • Hành Mộc : Đào Hoa, Ân Quang, Hóa Quyền.
  • Hành Hỏa : Thiên Khôi, Thiên Đức, Địa Kiếp, Phi Liêm.
  • Hành Thổ : Phúc Đức, Tuyệt, Thiên Tài, Tả Phù.
  • Hành Kim :Thiên Khôi (đới Kim), Tả Phù (đới Kim), Hồng Loan (đới Kim)
  • Hành Thủy: Tham Lang, Hồng Loan.
Ta giải đáp dễ dàng niên hạn của đương số như sau :
  • Mùa Xuân : Có quý nhân giúp đỡ, thăng tiến công danh rất mau.
  • Mùa Hè :May rủi liền nhau, càng cao danh vọng càng dày gian nan.
  • Mùa Thu :Trở lại sự bình yên, có bằng hữu thuận thảo.
  • Mùa Đông : Tình cảm thoải mái, yên vui ...
  • Riêng 15 ngày cuối mỗi mùa (Thổ) gặp các sao Phúc Đức, Tuyệt, Thiên Tài, Tả Phù nên hay có chuyện lo nghĩ , nhờ Thiên Tài hóa giải nhóm hung tinh : Tuyệt và Tả Phù ... thành ra cũng qua khỏi vào phút chót.
Khi áp dụng luật Ngũ Hành cho sao theo mùa, ta không nên quên so sánh Ngũ Hành của sao với Ngũ Hành của Cung, để thấy rõ hơn cường độ hoạt động của các Sao bị ảnh hưởng như thế nào trong mùa của nó.

Qua ví dụ nêu trên : Cung Tý là Thủy, đương nhiên các sao Mộc tăng cường lực, các sao Kim bị suy nhược, các sao Thổ bị trở ngại và các sao Thủy khởi sắc nhất (giống như : Giang san nào anh hùng nấy - Rừng nào Cọp ấy )

Tóm lại, bài viết này không ngoài mục đích muốn cống hiến người hâm mộ Tử-vi một vài quan điểm mới, để cùng nhau soi sáng một khoa học cổ điển (vốn bị hiểu lầm là lạc hậu, thoái hóa) có giá trị cao độ của ngành nghiệm lý xã hội.
(Trích từ Báo KHHB của GS Lê Trung Hưng)

10 Kinh nghiệm của sát thủ tử vi

Giáo sư Lê Trung Hưng

Sách Tử vi mỗi ngày càng nhiều nhưng ý nghĩa các Sao vẫn thấy không thấy thêm ra, chỉ quanh quẩn trên nhưng câu Phú với ý nghĩa mơ hồ, nhiều khi đặt để ở một trạng thái gán ghép thành ra làm nản chí những người ham học hỏi Tử-vi không ít. Trong chiều hướng phải làm sao sáng tỏ cho ngành học lý đoán cổ truyền này, những công trình nào dù bé nhỏ tới đâu, nếu đem phổ biến một cách trung thực và nhiệt thành, thiết tưởng cũng là một nỗ lực khách quan nhất của người tri thiên mệnh để xây dựng xã hội. Học phái Thiên Lương xin lại mạn phép chư vị quân tử trình làng Tử vi “Mười Kinh nghiệm” được coi là những đòn sát thủ trên mỗi bản số Tử-vi để cùng nhau chiêm nghiệm :


1.Sinh bất phùng thời: Hạn Thái tuế vô chính diệu
2.Đồng bệnh tương lân: Hình, Riêu, Không Kiếp
3.Đời là bể khổ: cung ách
4.Công ơn tổ phụ: cung Phúc đức vô chính diệu
5.Đen như mõm chó: Cung quan lộc vô chính diệu
6.Làm thân trâu ngựa: Thế tương quan giữa cung Thân Mệnh và cung Nô bộc
7.Trắng tay sự nghiệp: Hạn Thiên không ở tứ mộ
8.Sớm đầu tối đánh: Nhận diện nhóm hung tinh chiến lược Kình, Đà, Linh, Hỏa, Không, Kiếp.
9.Được làm vua thua làm giặc: Người Tỵ, Dậu, Sửu với sao Phá toái.
10.Anh hùng tạo thời thế: Luận bốn mẫu người Tử sát, Tử tướng, Tử phủ và Tử Phá.

 

Bây giờ xin vào chi tiết

1- Sinh bất phùng thời :


Mỗi bản số đều được hưởng 10 năm thuận lợi, đắc ý nhất ở cung Tam hạp với Sao Thái Tuế (được gọi là vòng Thái Tuế).

Thí dụ : Người tuổi Tỵ, vậy khi đến hạn 10 năm ở một trong ba cung Tỵ, Dậu, Sửu là được hưởng vòng Thái Tuế. Nhưng có 01 điều cân nhắc cận thận về cường độ của sự thoải mãi, nghĩa là xem, đắc ý tới mực nào, thì phải xem xét cung Mệnh (và cả cung an Thân) có chính diệu tọa thủ hay không, đồng thời cung nhập hạn của vòng Thái Tuế có chính diệu hay không ?. Sự đắc thắng vẻ vang hay chiến thắng trong gian lao là tùy thuộc vào các điều kiện sau đây :
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu hãm địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi một cách tương đối.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu đắc địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi trung bình.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì vẻ vang trong gian khổ, sinh bất phùng thời.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung có Chính diệu tọa thủ (nhất là bộ Sát, Phá , Tham) thì chiến thắng rạng rỡ huy hoàng đắc lợi như ý muốn.
•Trường hợp Cung Mệnh trùng hợp với ngay cung của vòng Thái Tuế không tốt bằng cung an Thân trùng hợp với cung của vòng Thái Tuế (vì Thân chủ về hành động, còn Mệnh là lý thuyết và tư tưởng, nên chỉ có làm mới có hưởng, tay có làm thì hàm mới có nhai ! )

2- Đồng bệnh tương lân :
Trong những tai nạn cộng đồng, nghĩa là nhiều người vướng vào vòng hoạn nạn cùng một lúc và bởi một nguyên do (Thí dụ : tai nạn rớt máy bay làm nhiều người chết ... ) Tử vi đã trở lên nghi vấn trong cách giải thích trường hợp khó khăn và tế nhị này ? Tuy nhiên, nếu đem đối chiếu với những lá số thiệt mạng (hay chỉ mang thương tích) trong tai nạn cộng đồng, thì khi dùng phép quy nạp đã cho thấy nét tương đồng kể sau :

- Tam hợp với cung Mệnh có Thiên Hình, Thiên Riêu, Địa Không và Địa Kiếp (hay tam hợp của cung Ách )

- Cung Ách có Thất Sát, Phá Quân hay Tham Lang (Hay cung Mệnh có cách này)

- Tiểu Vận (một năm) hay Đại Hạn (10 năm) vào vòng tam hạp của Thiên Không (Thiếu Dương - Tử Phù và Phúc Đức)

Hầu hết những người có cách trên đều phải nếm qua mùi vị của " Đồng Mệnh tương lân " : Việc xảy ra nếu có người chết, kẻ chỉ bị thương, là còn do cung Phúc Đức chi phối, dù thế nào đi chăng nữa thì cũng phải cộng đồng tai ách. Chắc chắn không ai dám kiểm chứng trường hợp này, bằng cách tập hợp tất cả các cá nhân có Hình-Riêu-Không- Kiếp ở Mệnh (và Ách cung là thế Sát Phá Tham), nhưng nếu quý vị nào chịu khó sưu tập những lá số có có tiêu chuẩn vừa nói, thì sẽ thấy ngay cá nhân của bản số đều vướng phải chuyện xui xẻo này một lần trong đời của họ.

3- Đời là bể khổ : Cung Ách

Thế nhị hợp của cung Ách với hai cung Mệnh, Thân đã nói lên rõ ràng cái nghiệp mà nhà Phật chủ trương .

- Mệnh, Thân sinh phò Ách cung , là ta phải lãnh đủ mọi chuyện do ta đã làm. Cá nhân phải trực tiếp chịu ảnh hưởng cái hậu quả của việc ta đã tạo ra trong đời sống hằng ngày (gieo nhân nào, gặt quả ấy). Đây là giai đoạn tạo nghiệp mà Nguyễn Du tiền bối đã nói : "Thiện căn ở tại lòng ta"

- Ách cung sinh phò Mệnh, Thân là bản thân ta ở kiếp này phải hứng chịu nhiều những hậu quả truyền kiếp (do dòng họ tiền nhân để lại, cũng có thể là do đời sống ta kiếp trước để lại) Cho nên, trong chuyện Kiều có câu ứng :
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng có trách lẫn trời gần trời xa.

- Mệnh,Thân sinh phò Ách cung là khi nào hành Tam hợp của cung Mệnh, Thân sinh ra hành của Tam hợp cung Ách (Ví dụ: Mệnh ở cung Dậu, vậy hành của Tam hợp Tỵ Dậu Sửu là Kim. Ách ở cung Thìn, vậy hành của Tam hợp Thân Tý Thìn là Thủy. Tam hợp Mệnh là Kim đã sinh phò tam hợp Ách là Thủy). Còn Ách cung sinh phò Mệnh, Thân cũng tính như cách vừa nói (Ví dụ : Ách ở cung Tỵ thuộc Tam hợp là hành Kim. Cung an Thân ở ngay cung Thân thuộc Tam hợp Thủy, do đó Ách (Kim) sinh xuất ra Thân (Thủy)

Mặt khác, đã gọi cung Tật Ách, thì chỉ được hiểu là những nghiệp xấu tích lũy tích tụ lại (còn nghiệp tốt tích tụ ở cung Phúc-Đức mới đúng nghĩa của nó) thành ra không bao giờ Đại Tiểu hạn đến cung Tật Ách mà người ta thấy thoải mái đắc ý được (sách xưa ghi đơn sơ : hạn Thiên Sứ xấu, chính là ẩn ý vậy). Đã biết cung Tật Ách xấu, và hiểu là những tai nạn cho mỗi bản số trong kiếp đang sống, thiết tưởng phải lưu ý hai bộ mặt của cung Ách :

- Ách cung thuộc cách Sát Phá Tham là hay bị ngoại thương, chủ về sự sát phạt tích cự mau lẹ.

- Ách cung thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, Tử Phủ Vũ Tướng chủ về nội thương, các tai họa có tính cách gậm nhấm, tiêu hao dần mòn ...

4- Công ơn Tổ-Phụ :
Nếu cung Ách tiêu biểu cho nghiệp xấu, thì cung Phúc Đức tượng trưng cho nghiệp tốt. Có điều cần phải nhấn mạnh là : nghiệp tốt với những cường độ khác nhau (phước mỏng hay phước dày là thế). Đa số sách Tử-vi đều hời hợt ghi chú :”Sao Mộ ở cung Phúc Đức là cách tốt đẹp”. Tôi thấy điều này trái hẳn với ý nghĩa Tăng–Trưởng–Hủy–Diệt của vòng Tràng Sinh (phải hiểu là 12 giai đoạn của một kiếp sống , chứ không phải là 12 sao: Tràng Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai và Dưỡng, được đa số nhìn như những tinh đẩu riêng biệt là một điều lầm lẫn lớn).

Cung Phúc Đức bản chất là một kho tích tụ những may mắn cho một đời người, nếu nó có sao Mộ đóng, tức là có nghĩa : giai đọan may mắn đã chìm sâu trong bóng tối một cách dễ hiểu hơn hơn là không còn hên nữa. Phúc Đức ở giai đoạn của Thai, của Dưỡng của Trường Sinh … là cách tốt đẹp khả quan nó biểu hiện cho những tiềm lực dồi dào, tài nguyên “may mắn” còn phong phú, còn tiềm tàng …

Ngoài ra, một kinh nghiệm khác về cung Phúc Đức, là khi nào cung này Vô Chính Diệu , được Thái Dương, Thái Âm (đắc địa) ở thế Tam Hợp hội nhập chiếu sáng rõ ràng một đời “Họa bất trùng lai, phước vô đơn chí”

Ví dụ : Cung Phúc Đức Vô Chính Diệu ở cung Mùi, có Thái Dương ở cung Mão, có Thái Âm ở cung Hợi chiếu sáng. Sách xưa có ghi “Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa” là một đời có nghĩa “ Bao nhiêu hạnh phúc ở trần gian, trời đã dành riêng để tặng … lá số “. Thiên địa hòa mình thì nhân sự thanh bình vậy.

5- Đen như mõm chó 
Sống là phải tranh đấu, nhất là đối với những ai còn chủ trương : Có trung hiếu nên đứng trong trời đất, không công danh thà nát với cỏ cây (Nguyễn Công Trứ), thì cung Quan Lộc phải kể là quan trọng đối với đấng ”mày râu” (Riêng đối với phái đẹp, thì tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang đã bàn rõ cách Thân cư Quan Lộc có Tuần-Triệt án ngữ, xin miễn bàn nhiều !) Các cách tốt xấu của chính tinh ở Quan Lộc đã có nhiều sách giải rất chi tiết, nhưng khi cung này Vô Chính Diệu thì sao ? Xin thưa ngay rằng : Đen như mõm chó. Cổ nhân nói câu thành ngữ này là có ý diễn tả cái cảnh bấp bênh, cái tráo trở, cái bất hạnh, cái long đong … của con người. Cung Quan Lộc Vô Chính Diệu là một trạng thái bi đát, mà cụ Uy Viễn Tướng Công đã cay cú :

– Người trần thế muốn nhàn sao được ?
Nói dễ hiểu hơn : Công danh sự nghiệp, thăng trầm vật vờ như phù vân. Kể cả trường hợp được Nhật Nguyệt chiếu sáng thì cũng chỉ là cái thế của Quân Sư quạt mo, phò người để còn có mình, khí cái gốc nương nhờ sụp đổ thì ta còn gì, ngoài ý nghĩa “ký sinh nhân” ?

6- Làm thân trâu ngựa
Người biết coi số Tử-Vi đều ngán ngẫm nhóm sao tráo trở và thủ đọan là : Tả, Hữu, Không, Kiếp, Phục Binh, Kình, Đà …(được coi là nhóm hung tinh chiến lược) đóng ở cung Nô.
Trong bản số Tử-Vi thế nhị hợp của cung Thân, Mệnh và cung Nô cũng phải lưu ý nhóm sao dữ kể trên đóng ở vị trí nào :

– Nếu Tam hợp cung Thân – Mệnh có hành sinh xuất tam hợp cung Nô, mà cung Nô chứa bộ hung tinh chiến lược thì có nghĩa là làm ơn mắc óan, hữu công vô lao, bạn bè chỉ là hạng bất nhân luôn luôn tìm cách trục lợi mình, sang thì tìm đến, khó thì tìm lui. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tả óan :
Còn bạc còn tiền còn để tử
Hết cơm hết gạo hết ông tôi
Ví dụ : Cung Thân ở cung Hợi (thuộc Hợi Mão Mùi là Mộc), Cung Nô ở cung Dần (thuộc Dần Ngọ Tuất là Hỏa). Vậy là cái ta Mộc sinh xuất cho cái Nô Hỏa.

– Nếu tam hợp cung Thân- Mệnh được hành sinh nhập bởi tam hợp của cung Nô, mà cung Nô cũng chứa bộ hung tinh chiến lược, lại có nghĩa thâm thúy như sau : Bạn Bè, thuộc hạ của ta tuy là hạng đầu trâu mặt ngựa, đối với người khác là sự phản bội nhưng đối với ta vẫn trung thành phục vụ , đem hết sức khuyển mã để phụng sự ta.
Ví dụ : Nô Bộc ở cung Hợi (thuộc tam hợp Mộc) sinh nhập cho Thân ở cung Dần (thuộc tam hợp Hỏa). Những thầy phù thủy, thầy pháp cao tay ấn đều có cách này.

7- Trắng tay sự nghiệp
Đại, Tiểu Hạn trùng phùng, đáng sợ nhất của lá số Tử-Vi là Đại hạn 10 năm đóng tại một trong ba cung có sao : Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức (đỡ vất vả nhất) và Tiểu vận một năm cũng nằm trên một trong ba cung có sao vừa nói, (gọi là hạn Thiên Không, sẽ gặp số không ở cuối đường hầm). Cụ Thiên Lương chủ trương học Tử-Vi phải có lòng thành khẩn và can đảm mà gồng mình chịu đựng :

– Khi sao Thiên Không đóng ở Tứ Mộ (bốn cung Thìn Tuất Sửi Mùi ) nghĩa là không có trường hợp Đào Hoa, Thiên Không (xảo trá, mưu mô) và cũng không có trường hợp Hồng Loan Thiên Không (xuất tăng tầm đạo ) chỉ có một GRANĐ-ZEZÔ. Vậy khi nào hạn Thiên Không (vòng của Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức) nhập Mộ cung, thì kể như trắng tay sự nghiệp (nhất là khi Mệnh, Thân thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, mà Đại Tiểu hạn trùng phùng là Sát Phá Tham cách) may mắn lắm bản thân mới còn, đa số đều ôm hận ngút trời, mà về cõi ta bà Âm Phủ

8- Sớm đầu tối đánh:
Sáu sao Kình Dương, Đà La, Địa Kiếp, Địa Không, Hỏa Tinh và Linh Tinh. Tuy bản chất hung dữ nhưng có nhiều nét dị biệt cần phải bám sát vào ba đặc tính kể sau để nhận diện :

– Kình Dương và Đà La thuộc loại Sát tinh hữu dõng vô mưu, tuy tác hại nhưng còn chiêu hồi được. Nói cách khác, khi nó hãm địa là những bộ mặt quỷ dạ xoa, chủ trương tiêu diệt phá phách, nhưng khi chúng đắc địa nhất là cung Sửu, Mùi thì lại là mẫu hình Chung Vô Diệm tuy xấu mặt nhưng tốt bụng, luôn luôn trung thành, cứu giải phò nguy cho cung mang ý nghĩa mà đôi sao này trấn đóng.

– Địa Kiếp và Địa Không là cặp bài trùng phản trắc chung thân (bất kể chúng đóng ở cung hãm địa hay đắc địa) cung nào mà có bộ mặt của hai sao Không, Kiếp (dù một hay cả hai) thì cục diện cung đó đã có chiều hướng lệch lạc (Thiên Tả) lình xình. Không, Kiếp đắc địa ở cung Tỵ, Hợi, chỉ làm lợi buổi đầu, nó đưa người thụ hưởng lên thật cao rồi cuối cùng vật té xuống hồ sâu (bản chất phản trắc là như thế !). Ngoài ra, một vài tiểu xảo lý thú về sự lệch lạc của Địa Không, Địa Kiếp như sau : Cung Tử Tức có Không Kiếp là thêm con hoang, dị bào, khó nuôi con … Cung Huynh Đệ có Không Kiếp là có thêm anh chị em không cùng một giòng chính thống, hay anh chị em gái có người tình duyên dang dỡ... Cung Phối có Không Kiếp là nhiều lần chắp nối, vợ này, chồng khác (nhất là gặp phải góa phụ, góa vợ..).

– Hỏa Tinh và Linh Tinh là nhóm sao chuyên chú về những thủ đoạn vụng trộm, tính toán, tiểu lợi, chỉ rình mò khi nào đương số gặp vận xấu là vùng lên đánh lén để ăn có. Cung nào chứa Hỏa Tinh, Linh Tinh (chỉ cần một cung là đủ) là hay gặp phải ý nghĩa của câu “họa vô đơn chí”, nghĩa là đường kia nỗi nọ ngổn ngang tơi bời , bởi lo chuyện này chưa xong thì tai ách khác đã tới (nhưng không đến nỗi gay cấn lắm) quan trọng và tai hại nhất là những ai tuổi Canh, Tân (và mạng Kim) gặp hạn Linh, Hỏa ở thế Sát Phá Tham là tiêu tùng sự nghiệp, bổn mạng lâm nguy (Linh Hỏa đóng ở hai cung Thủy là Hợi và Tý thì hạn nhẹ nhất).

9- Được làm vua thua làm giặc
Sao Phá Toái hoạt động riêng trong giang sơn của nó là vòng Kim (thuộc ba cung Tỵ Dậu Sửu). Ai cũng biết Phá Toái chỉ chịu quy phục sao Phá Quân (gọi là Toái Quân- Lưỡng Phá). Do đó người Mạng Kim mà Thân, Mệnh đóng ở một trong ba cung Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Sát Phá Tham thì hay nhất, anh hùng nhất (số làm tướng, bách chiến, bách thắng). Thói thường cỡi cọp thì sẽ có ngày cọp cỡi (sinh nghề tử nghiệp) thành ra những người tuổi Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương ở cung Thân, Mệnh, hạn gặp Phá Toái kể như lọt vào vòng kiềm tỏa và ảnh hưởng trực tiếp của hung tinh này, đau khổ là lý đương nhiên, chưa vui họp mặt đã sầu chia ly.

10.Anh hùng tạo thời thế
Tử vi là chúa tinh, đóng ở cung nào đem bóng dáng của hạnh phúc vào cung đó, đây chỉ là lý thuyết tổng quát. Còn khi đem áp dụng vào bản số Tử vi thì đã biến thiên rất nhiều ý nghĩa, lẽ dễ hiểu: Vua hiền mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà nước lã quấy nên bột nên hồ? Lưu Bị không gặp được Khổng Minh, Lê Lợi không có Nguyễn Trãi, chưa chắc đã có tình trạng lịch sử đáng được ghi chép. Có bốn mẫu cung Thân Mệnh (nhất là cung an Thân, vì có hoạt động mới tạo được thành quả) cần phân tích:

-Mệnh Thân có Tử Vi và Thất sát: Vua có thực lực nhưng bề tôi là đám chủ về bạo động, nên ở tình trạng chật vật, thật vất vả mới bình trị được thiên hạn, thất bại nhiều hơn chiến thắng.

-Mệnh thân có Tử vi và Phá quân: Vua gặp phải bầy tôi gian xảo và tham vọng, thành ra yếm thế, bi quan, nhiều khi cũng phải gian tham độc ác theo để tương kế, tựu kế mà sống.

-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Tướng: Vua gặp được tướng giỏi (nhưng hữu dũng vô mưu) cách này là phải luôn chiến đấu (làm sao bắt Thiên Tướng làm việc liên miên, để không còn cơ hội tạo phản) do đó tình trạng phải đa đoạn công việc việc suy gẫm nhiều mưu cơ

-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Phủ: Vua gặp thời thạnh trị, văn thần trung nghĩa, trên dưới hòa thuận nên được hưởng nhiều thanh thản trong đời sống, vừa có tiếng, vừa có miếng.

Nói cách chung, tất cả các yếu tố gọi là sao trên bản số Tử vi, đã sinh hoạt như một cộng đồng nhân loại, có đầy đủ các yêu tính thế tục và thánh thiện vậy.
 

(KHHB số 74-L-1 và 74-L-2)

Thứ Hai, 18 tháng 4, 2016

10 Điều tâm niệm khi đoán số Tử Vi

I-Tử Vi dưới nhãn quan Huyền Cơ đạo thuật
 
Khoa học Tử-Vi theo truyền thuyết thì phát sinh từ đời nhà Tống (Trung Hoa) và do Trần Đoàn hiền triết phát huy thành hệ thống lý học, để rồi sau đó được các thế hệ nối tiếp vừa đóng góp nghiên cứu, vừa quảng bá nhân gian như một khuynh hướng tiên tri các hoạt động của mỗi con người. Xã hội Á Đông xưa trọng kẻ sĩ hơn hết thảy :
– Dân hữu tử, sĩ vi chi tiên.
Mẫu người đại nhân phải hội đủ các yếu tố hơn đời và hơn người qua sự tinh thông nho, y, lý số. Trong khi đại đa số quần chúng lo sinh nhai bằng cách sinh hoạt trên căn bản nông nghiệp, thì giới sĩ phu miệt mài bằng các suy tư nhân linh của đạo học Đông Phương, lấy tĩnh trạng làm căn bản biện chứng cho các động trạng. Hai chiều hướng trái ngược :
– Đa số : Động trạng – Tĩnh trạng
– Thiểu số : Tĩnh trạng – Động trạng.
Làm cho khoa lý học Tử Vi trở thành huyền học và tệ hơn nữa là thành đạo thuật mưu sinh của của những ” bậc đại nhân nửa chừng xuân “ vì tham vọng cho cá nhân. Nhãn quan chung của nhân gian, xưa đến nay một phần bị mê hoặc bởi các thuật sĩ, một phần chịu ảnh hưởng triết lý nhị nguyên của Tây Phương (qua cố gắng nhiệt thành của các quan Tây Phương cai trị thời pháp thuộc), nhìn môn Tử Vi như một kiến thức của óc mê tín, chỉ một vài năm gần đây, giới trí thức mới đang kiếm các phục hồi cho khoa Tử Vi bằng những nổ lực của luận lý, là đem kỹ thuật của Tây Phương giải thích sáng tỏ một phần góc cạnh “áo bí” của khoa học nhân văn này. Trong tinh thần mới ấy, khoa Tử Vi không thể chỉ nghiên cứu bằng những mẫu chuyện truyền khẩu, bằng những câu phú thực nghiệm trải qua thời gian đã bị tam sao thất bổn : mà phải vận dụng tinh thần tinh tế của lý học hiện đại đồng thời vẫn lấy căn bản “dịch lý” của Đông Phương làm nền tảng phán đoán. Nếu ai cũng biết cái tinh hoa của quan niệm “ý tại ngôn ngoại” của “lời vô ngôn” đẻ ra cung cách của Thuật Zen (Thiền) thì cái tinh túy mềm dẻo và thích nghi của Yoga càng phải nên áp dụng vào khoa Tử Vi để linh động biện chứng những tương quan của các dữ kiện (tạm gọi là sao trên lá số Tử Vi) chi phối đời người.
 
II-Kỹ thuật tiêu chuẩn để nhận biết lá số Tử-Vi
  Trong phạm vi bài tham luận này, bỏ ra ngoài những giai đoạn lập lá số Tử Vi mà tạm coi như việc hoàn thành lá số có đầy đủ. Người có bản số hãy theo theo dõi các dữ kiện “sao” sau đây:
1/- Dữ kiện nghị lực : Sao Thiên Mã.
2/- Dữ kiện sinh tồn :các sao vòng Tràng Sinh.
3/- Dữ kiện hưng thịnh : các sao vòng Lộc-Tồn.
4/- Dữ kiện tính khí : các sao vòng Thái Tuế.
5/- Dữ kiện thời vận : các sao Tuần và Triệt.
6/- Dữ kiện bẩm chất : các sao Thiên Không, Đào Hoa, Hồng Loan.
7/- Dữ kiện hoạt động : các sao Vòng Mệnh và vòng Thân.
8/- Dữ kiện thú tính : các sao Địa Không, Địa Kiếp, Đà La, Kình Dương, Hỏa-Tinh, Linh-Tinh.
9/- Dữ kiện phù trợ : các sao Tả-Phù, Hữu-Bật, Lực Sĩ, Bác-Sĩ, Hóa Quyền, Hóa Khoa.
10/-Dữ kiện ma thuật : Mệnh vô chính diệu.
Ngoài các dữ kiện sao vừa nói, ta hãy nói sơ lược lại nền tảng phối hợp ngũ hành, để thích nghi luận lý :
a)- Tương sinh : Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thủy-Mộc.
b)- Tương khắc: Mộc-Thổ-Thủy-Hỏa-Kim-Mộc.
c)- Bình Hòa : Thổ gặp Thổ (dù là loại Thổ gì cũng vậy)
d)- Bất cập : Hỏa gặp Hỏa (dù là loại Hỏa gì cũng vậy)
e)- Thái quá : Thủy gặp Thủy (dù là loại Thủy gì cũng vậy)
f)- Phát triển :Kim gặp Kim và Mộc gặp Mộc.
Có nhiều sách ghi thêm tính chất của nhiều loại Thổ, nhiều loại Hỏa để cố gắng phân tích sự tiết giảm xung đột hay tăng thêm hòa hợp; điều này có phần biện bác để an ủi cho những người gặp cảnh ngộ xấu hoặc là tâng bốc những người ưa nghe điều tốt mà thôi. Vì đã ở thế cùng hành tất phải ở tình trạng ngưng đọng hơn là ảnh hưởng với nhau (lý thuyết nhất nguyên tính trạng) Do đó, chủ ý của bài viết này là nhằm cái biến dịch của ngũ hành trên 12 cung số của bản số Tử Vi mà luận giải.
III- Sao Thiên Mã
  Người Đông Phương ưa cảm thông sự vật hơn phát biểu sự vật nên việc dùng từ ngữ chỉ có ý nghĩa tượng trưng (chứ không có tính cách mô tả chủ quan như Tây Phương) cho nên dữ kiện được gọi là “sao Thiên Mã” chỉ nên hiểu là cái nghị lực của con người trong bản số Tử Vi. Tùy theo vị trí của 4 cung : Dần, Tỵ, Thân, Hợi mà sao Thiên Mã đóng, ta hiểu như sau :
a)- Thiên Mã ở cung Dần : đứng ở cung Mộc rất hợp với người mạng Mộc bạc nhược với người mạng Kim, vất vả với người mạng Thủy, làm hại người mạng Thổ, làm lợi người mạng Hỏa.
b)- Thiên Mã ở cung Tỵ : đứng ở cung Hỏa rất hợp với người mạng Hỏa, làm lợi người mạng Thổ, vất vả người mạng Mộc, làm hại người mạng Kim, bạc nhược với người mạng Thủy.
c)- Thiên Mã ở cung Thân : đứng ở cung Kim rất hợp với người mạng Kim, làm lợi người mạng Thủy, vất vả người mạng Thổ, làm hại người mạng Mộc, bạc nhược với người mạng Hỏa.
d)- Thiên Mã ở cung Hợi : đứng ở cung Thủy rất hợp với người mạng Thủy, làm lợi cho người mạng Mộc, vất vả với người mạng Kim, làm hại người mạng Thổ.
IV- Vòng Tràng Sinh
  Vòng Tràng sinh có 12 sao đóng đủ trên 12 cung Tử Vi, ý nghĩa của vòng sao này ta nên coi là dữ kiện sinh tồn của đương số, do đó, khi cung an Mệnh, cung Phước đức (tiền kiếp) và cung Tật Ách (hậu kiếp) có những sao cùng hành với bản mệnh thì luận ra tính cách thọ, yểu, mạnh, khỏe, hay đau yếu :
a)- Đối với sao Tràng Sinh (là Thủy) Cung Mệnh sinh sao, sao sinh bản Mệnh là đắc cách. Thí dụ : Người hành Mộc, mệnh an tại Dậu (Tuổi Âm Nam, Dương Nữ) thuộc Kim có các Sao Trường Sinh là Thủy (Kim-Thủy) sao Trường sinh sinh ra hành Mộc. Cung Mệnh sinh sao, sao khắc bản mệnh là sống không khỏe mạnh. Cung Mệnh khắc sao, sao sinh bản Mệnh bất đắc kỳ tử. Cung Mệnh khắc sao, sao khắc bản mệnh : chết non.
b)- Đối với sao Thai (Thổ) thì cần phải đóng ở cung Phúc Đức để chứng tỏ tiền kiếp đã kết tụ tinh anh, phát kết ra kiếp hiện tại, thì lý tự nhiên cuộc sống phải bền, để ý nghĩa của ” Thai” hiện hữu như một căn bản không phản hồi được. Trường hợp này, cung Mệnh có sao Mộ, cung Quan có Trường Sinh, Cung Tài có Đế Vượng (ngu si hưởng thái bình!?)
c)- Đối với sao Đế Vượng (là Kim) cần phải tụ hội ở cung Tật Ách (hậu kiếp) để minh chứng ngày ra đi sang kiếp sau được tiếp đón như một thành tích vẻ vang tuyệt đỉnh (vì trong chu kỳ sinh thái của Vòng Tràng-Sinh, thì giai đoạn Đế Vượng coi như điểm cực đại của hàm số Parabole, biểu diễn vòng luân hồi của con người). Trường hợp này là người có sao Tuyệt ở cung Mệnh (khôn ngoan ở đời)
V- Vòng Lộc Tồn
  Sống ở đời, người ta ai cũng cần có phương tiện thuận lợi tối đa để hưởng hạnh phúc (dù là hạnh phúc tạm), nên trong khoa Tử-Vi có vòng sao Lộc Tồn được coi là những dữ kiện của sự hưng thịnh. Vòng Lộc Tồn cũng có 12 sao an đủ 12 cung trên bản số. Tuy nhiên ta lưu ý 4 cung : Dần, Mão, Thân, Dậu nhiều nhất :
a)- Tuổi Giáp : Lộc tồn ở Dần.
b)- Tuổi Ất : Lộc tồn ở Mão
c)- Tuổi Canh : Lộc tồn ở Thân.
d)- Tuổi Tân : Lộc tồn ở Dậu.
Cho nên, những người sanh năm Dần-Ngọ-Tuất mà tuổi Giáp (Giáp Dần, Giáp Ngọ, Giáp Tuất) thì hưởng cái lộc này lâu dài (đúng nghĩa Lộc tồn) những người tuổi Ất Mão, Ất Hợi và Ất Mùi; Canh Thân, Canh Tý và Canh Thìn; Tân Tỵ, Tân Dậu, và Tân Sửu cũng được hưởng may mắn nói trên. Kỳ dư các tuổi khác nếu, cung Mệnh, cung Quan hoặc cung Tài mà có Lộc tồn, thì Lộc tuy có nhưng không tồn được (hưởng trong giai đoạn ngắn mà thôi !?
VI- Vòng Thái Tuế
  Có lẽ đây vòng sao hệ trọng nhất đối với người nghiên cứu khoa tử vi lý học. Bởi vòng này diễn tả cái tính khí, phẩm hạnh của đương số cũng như nó cho biết cái chu kỳ thăng trầm của cuộc đời . Cho nên ta phân 12 sao của ngũ hành là :
– Dần Ngọ Tuất : Hành Hỏa
– Tỵ Dậu Sửu : Hành Kim
– Hợi Mão Mùi : Hành Mộc
– Thân Tý Thìn : Hành Thủy
Thành ra 4 nhóm mệnh danh như sau :
a-Nhóm chánh phái : Thái tuế, Quan Phù, Bạch Hổ.
b-Nhóm tả phái : Tuế Phá, Điếu Khách, Tang Môn.
c-Nhóm thiên hữu : Long Đức, Thiếu Âm, Trực Phù.
d-Nhóm thiên tả : Thiếu dương, Tử Phù, Phúc Đức.
Cung An Mệnh thuộc nhóm nào, thì giúp ta nhìn thấy cái cá tính chung của đương số ngay, Ví dụ như :
– Những người tuổi Dần, Ngọ, Tuất, cung Mệnh, cung Quan Lộc và Tài Bạch cũng đóng ở 3 cung Dần, Ngọ, Tuất (có nhóm chánh phái đóng) thì là những người đảm lược, lương hảo, anh hùng.
– Những người tuổi Tỵ, Dậu, Sửu có 3 cung Mệnh, Quan và Tài đóng ở 3 cung Tỵ, Dậu, Sửu (có nhóm chánh phái đóng) thì hiển hách hơn người, được kính nể;
– Ta tiếp tục lý luận như trên cho các người tuổi Thân, Tý, Thìn. Mệnh, Quan và Tài cũng đóng Thân, Tý, Thìn. Những người tuổi Hợi, Mão Mùi mà 3 cung Hợi, Mão, Mùi đều là chánh phái cả. Cộng thêm các dữ liệu sao có trong bản số của đương số thì kết luận thêm cho chính xác.
Giai đoạn tuổi ở 1 trong 3 cung của nhóm: Thái Tuế-Quan Phù-Bạch Hổ, đều là thời vận tốt nhất cho người có lá số tử vi. Khi cung Mệnh của của bản số tử-vi thuộc nhóm tả phái đó là người bất mãn, lang bạt và đau khổ. Cung Mệnh thuộc nhóm thiên hữu là người bẩm chất hiền lành nhưng nhu nhược, cung Mệnh thuộc nhóm thiên tả, là người khôn vặt, lanh lợi những chuyện tầm thường.
VII- Luật của sao TUẦN & TRIỆT
  Kiếp nhân sinh ví như cái xe lăn trên đường đời, Sao Triệt được coi như cái Thắng đầu của xe, còn sao Tuần coi như bộ thắng sau của xe. Thắng đầu cần mới nguyên, rất hữu hiệu trong việc cản bánh xe lăn (đôi khi còn tạo ra nguy hiểm ! làm cho xe lật) nên dưới 30 tuổi ảnh hưởng của sao Triệt thật đậm đà. Sao Tuần ít bộc phát ảnh hưởng rõ rệt, nhưng lại bền vững suốt đời người (thắng của bánh xe sau tác dụng điều hòa tốc độ của xe chạy). Luật hóa giải TUẦN-TRIỆT được đặc biệt cho những ai có bản số Tử vi mà cung Mệnh bị một trong hai sao Triệt và Tuần trấn đóng, thì đi đến giai đoạn cung có sao còn lại đóng, là vận hên đã tới.
Thí dụ : Mệnh đóng tại Tỵ có sao Triệt, cung Phúc đức có sao Tuần , vậy đi đến giai đoạn cung Phúc đức thì phát huy được danh phận (dù không thuộc vòng Thái Tuế-Quan Phù-Bạch Hổ). Lý giải điều này cũng tự nhiên. Vi khi xe chạy mà người tài xế điều hành được hai bộ thắng thì tất nhiên phải an toàn bảo đảm như ý muốn.
VIII- Bộ ba Thiên Không, Đào Hoa và Hồng Loan
  Người biết coi Tử vi, ai cũng biết :Thiên Không (Hành Hỏa), Đào Hoa (Hành Mộc) và Hồng Loan (thuộc hành Thủy). Bản chất của Hỏa Tinh là tàn phá, là gieo rắc tai ương (Thần chiến tranh) : cho nên khi ba cung Mệnh, Quan và Tài của bản số tử vi có :
a)- Thiên Không, Đào Hoa nghĩa là Mộc dưỡng hỏa, để Hỏa tàn phá thêm mạnh dạn, thêm khốc liệt, ý tượng trưng cho sự khôn ngoan quá quắt của đương số. Người có cách này là mẫu người muốn chiếm đọat, muốn lấn tới để ăn người.
b)- Thiên Không Hồng Loan : Nghĩa là lửa đã bị Thủy trấn áp, bó tay qui hàng, nên cung Mệnh có cách này là mẫu người thoát tục, thích cảnh tịnh hơn cảnh động.
c)- Thiên Không độc thủ (ở Thìn-Tuất-Sửu-Mùi có Hồng Đào chiếu) bụng dạ thất thường người Âm Nam, Âm Nữ là lửa ngầm, người Dương Nam, Dương Nữ là lửa bùng : tất cả đều thủ đoạn vặt hoặc không bộc lộ hoặc phát tiết ra ngòai.
IX- Vòng Mệnh và Vòng Thân
  Căn cứ của Luật Tam hạp :
– Dần Ngọ Tuất là Hỏa.
– Thân Tý Thìn là Thủy.
– Hợi Mão Mùi là Mộc.
– Tỵ Dậu Sửu là Kim.
Thì khi cung an Mệnh đứng ở vị trí nào so với vòng Thái Tuế, ta phải nhìn thế tam hợp của cung an Mệnh như Vòng tha nhân đối với Vòng bẩm tính đương số là vòng Thái Tuế tam hợp của cung an Thân là Vòng hành động của đương số. Biện chứng qua Luật ngũ hành tiêu-trưởng, ta vạch trần được tác phong đường số một các dễ dàng.
Ví dụ : Người tuổi Tỵ (Vòng Thái Tuế là Tỵ-Dậu-Sửu : Kim), cung an Mệnh đóng ở Tuất (Vòng tha nhân là Dần-Ngọ-Tuất : Hỏa), cung an Thân ở Tý (Vòng hành động là Thân-Tý-Thìn : Thủy). Ta lý giải ngay : số người này là mẫu người ra đời bị người ta chèn ép (do Hỏa khắc Kim), chịu nhiều thua thiệt, vất vả (vì Kim sinh Thủy)
X- Nhóm hung tinh chiến lược
  Ta gọi là hung tinh chiến lược, vì các sao Địa không, Địa Kiếp, Đà La, Kình Dương, Hỏa Tinh, Linh Tinh, có những bộ mặt thú tính man dã nhưng hóa giải được khi điều hướng đúng chỗ.
a)- Hai sao Địa Kiếp, Địa Không khi đứng trong nhóm tam hợp của vòng Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ, thì dù đắc địa (Tỵ, Hợi) hay hãm địa, cũng vẫn mất hiệu lực phá hại của nó, để trở nên ý nghĩa của người có tài mà không có thời. Mặt khác, nếu đương số thuộc hành Thổ thì đã làm cho tính chất Hỏa của Không Kiếp bị tiết khí : nên vẫy vùng yếu kém hẳn.
b)- Hai sao Đà La đóng ở Dần Thân Tỵ Hợi và Kình Dương đóng ở tứ mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi ) lại có Vòng Thái Tuế ở đây thì không còn là sao tác họa mà trở thành bộ “hồi chánh tinh” đới công chuộc tội, phát võ hiển vinh, vượng phu ích tử.
c)- Hai sao Hỏa tinh, Linh Tinh cũng là bộ Hỏa-Linh. Nếu đứng trong vòng Thái Tuế thì tạo thành những cái thất bại anh dũng của đương số. Người có cách này, dù “khí thiêng đã về thần” cũng được người đời kính nể khâm phục. Nói cách khác: Đấy là cách của người ” Sinh thọ tử bất ninh thọ nhục “
XI- Bộ sao phò trợ
  Quan niệm ” phù thịnh không phù suy “ là ý nghĩa của các nhóm sao phù trợ : Tả Phù, Hữu Bật, Lực Sĩ, Bác Sĩ, Hóa Quyền … Nếu các vòng sao này lọt vào trong vòng Thái Tuế, thì đúng là những ” lương đống công thần “ giúp cho đương số thăng tiến thành đạt ở đường đời, bằng trái lại, chúng nhảy sang vòng Tuế Phá, Điếu Khách, Tang Môn (nhóm tả phái), thì chẳng khác nào thả cọp về rừng, sức tán hại càng phát triển, làm cho đương số trăm chiều vất vả (Đặc biệt nếu cung Mệnh có cách này, mà vòng Thái Tuế không tam hợp với cung Mệnh, thì rõ ràng là loại Hoàng Sào thảo khấu, ác bá côn đồ). Nhớ đây chỉ là cái chung nhất cần phải kết hợp thêm các dữ liệu sao trong bản số Tử-vi để mà diễn giải thì mới có kết luận thêm chính xác tới mức độ nào.
XII- Mệnh vô chính diệu : cách số của ma thuật
  Nói chung những người có cung Mệnh vô chính diệu, thường là mẫu người sắc sảo, quyền biến có nhiều cảm ứng bén nhạy hơn người có chính diệu thủ cung Mệnh. Xem số Tử-vi những người Mệnh vô chính diệu rất khó, vỉ độ chuyển biến của các dữ kiện “sao” rất “Sensible” nghĩa là có cách số ma thuật huyền hoặc nhất. Càng nhiều hung tinh, bại tinh đắc địa tọa thủ Mệnh, càng có lợi cho đương số. Tuy nhiên vẫn cần vòng Thái Tuế tam hợp với cung an Mệnh hoặc cung an Thân để có thể hướng cái chánh nghĩa về cho nhóm ác tinh này, bằng không thì đương số sẽ trở thành những hồ ly tinh tu luyện thành người, bản tính dã thú … khó phân biệt (!?) sẽ tạo ra những nghiệp ác để rồi đền tội một cách mau chóng (chết yểu).
XIII- TỔNG LUẬN
  Nếu nắm vững mười dữ kiện căn bản nêu trên, lẽ tất nhiên khoa Tử-Vi không còn là bí truyền ân sủng cho một riêng ai; tất cả chỉ còn là toàn những tương quan ngũ hành sinh khắc hoặc chế hóa, chỉ còn là những lý giải minh bạch cho các dữ kiện được gọi là “sao” của bản số Tử-vi mà nhãn quan của con người nghiên cứu luôn luôn phải khách quan một cách thành khẩn.
Khoa lý học này sẽ có một ngày cởi bỏ cái “áo bí” của nó, để trở thành một khoa nhân văn chứa đựng tính thiện ác và thái độ vô cầu của người thâm cứu.

10 Trạng thái kỳ thú của Tử Vi

Sau loạt bài “10 điều tâm niệm khi đoán số Tử Vi” cho khoa Đẩu Số Tử-Vi. Người viết vẫn chỉ mong làm một công việc bình thường nhất là truyền thông đến quý vị say mê nghiên cứu Tử-Vi, một vài suy nghiệm thâm thúy đã tìm thấy ở khoa lý học Đông Phương này. Trong khuôn khổ tổng quát vừa nói, kẻ viết xin trình bày thêm “10 trạng thái kỳ thú của Tử-vi” như sau :

1 – Vó câu nghị lực
2 – Đối kháng của định mệnh
3 – Liên minh kỳ diệu
4 – Hạnh phúc lâm nguy
5 – Đường đời cô đơn
6 – Bạn là ai
7 – Nên sống hay chết
8 – Sung sướng hay đau khổ
9 – Nhân diện ác quỷ
10-Anh hùng chiến trận.

1- Vó câu nghị lực 

Biết xem Tử-vi ai cũng phải công nhận giá trị quan hệ của các sao Thiên Mã, nó tượng trưng cho nghị lực ở đường đời, cũng như chiếc xe đi của đương số. Thiên Mã chỉ đóng ở 4 cung thuộc Tứ sinh : Dần, Thân, Tỵ, Hợi. Khi Mã đóng ở cung nào, thì Mã thuộc hành của cung đó.
Thí dụ : Thiên Mã đóng ở cung Thân, tức là Mã Kim, Thiên Mã đóng ở cung Dần là Mã Mộc …. Tuy vậy, có điều lý thú nhất, là khi Mã đóng ở cung nào có sao Tuần thì phải nên hiểu rằng : Mã không còn ở cung đó nữa, mà Thiên Mã đã nhờ chiếc cầu Tuần nhảy tới (theo chiếu thuận) vị trí mới để trở thành Mã của hành ở cung mới nhảy tới. Thí dụ : Thiên Mã đóng ở cung Thân mà cung Thân có sao Tuần thì phải hiểu rằng Thiên Mã đã nhảy tới cung Hợi, để trở thành Mã Thủy (chứ không phải là Mã Kim nữa). Do đó, khi đối chiếu ngũ hành của Mã với ngũ hành của Mệnh, ta nên để ý tới sự kiện Mã ngộ Tuần (Sao Triệt không kể tới) mà luận giải về tính cách phấn đấu của đương số trong đời sống cũng như về những tai họa do xe cộ gây ra …

2- Đối kháng của Định Mệnh 

Lá số Tử-Vi gồm 12 cung, mỗi cung mang một chủ đề trong 12 chủ đề của đương số là :Mệnh, Phụ, Phúc, Điền, Quan, Nô, Di, Ách, Tài, Tử, Phối, Bào. Ta hãy để ý có 6 đôi cung xung phá nhau, lần lượt là :
– Dần với Tị
– Sửu với Ngọ
– Tý với Mùi
– Hợi với Thân
– Mão với Thìn
– Dậu với Tuất.
Cho nên khi nhìn vào các cung trên, ta thấy ngay các vấn đề đã trở thành nên những đối tượng tranh chấp (một thắng một bại, một mất một còn, một chánh một tà, một thịnh một suy) nhau thật rõ ràng.
Thí dụ : Mệnh đóng tại cung Tý ta có :
Mệnh – Ách : xung phá.
Phụ – Di : xung phá
Phúc – Nô : xung phá
Điền – Quan : xung phá
Tử – Phối : Xung phá
Tài – Bào : xung phá
Rồi giữa những cặp cung tranh chấp ấy, ta để ý những sao của cung nào hợp và lợi cho ngũ hành của bản Mệnh, thì cung ấy cường và cung kia nhược. Thí dụ : Phúc – Nô xung phá, nếu Nô cung cường thỉ Phúc cung nhược, Tử phối xung phá, nếu Phối thịnh thỉ Tử suy …..

3- Liên minh kỳ diệu 

Nếu đã có 6 đôi cung phá nhau, thì cũng có 6 đôi cùng hạp nhau (nhưng chỉ là hạp một chiều) được gọi là 6 đôi nhị hợp :
– Tý với Sửu (Sửu lo cho Tý)
– Dần với Hợi (Hợi lo cho Dần)
– Mão với Tuất (Mão lo cho Tuất)
– Thìn với Dậu (Dậu lo cho Thìn)
– Tỵ với Thân (Tỵ lo cho Thân)
– Mùi với Ngọ (Mùi lo cho Ngọ)
Từ căn bản này, 12 chủ đề của bản số Tử-Vi đã thu lại làm 6 hành động làm lợi cho 6 chủ đề mà thôi. Thí dụ : Mệnh đóng tại Tý, thì bản số có giải đáp tổng quát ngay : cha mẹ lo cho đương số, bạn bè đem tài lộc tới cho đương số ….
Một lý thú căn bản suy gẫm : cung an Mệnh (tượng trưng cho đời sống tiêu cực của con người) luôn luôn được cung phụ mẫu che chở, nhưng cung an Thân (tượng trưng cho hành động của con người) lại luôn luôn sinh phò cho cung Phụ Mẫu (có ý nghĩa như sự báo hiếu vậy). Vấn đề này đã được cụ Thiên Lương cho là một bố cục tế vi của cổ nhân khi soạn ra cách an sao lập số Tử-vi vậy.

4- Hạnh phúc lâm nguy

Bộ Sát Phá Tham là nhóm tinh đẩu quá khích, chủ về các hành động sát phạt, cho nên khi người ở cách Cơ Nguyệt Đồng Lương mà sang Đại hạn Sát Phá Tham thì hãy coi chừng sự xông xáo thái quá của nhóm sao vừa nói gây ra phản ứng phũ phàng không sao lường được (điều này thì ai cũng biết cả). Tuy nhiên ở đây, ta hãy để tâm kiểm nghiệm hai trường hợp :
– Bộ Sát Phá Tham ở cung Phụ Mẫu.
– Và Bộ Sát Phá Tham ở cung Phu Thê.
Luôn luôn là khuynh hướng báo trước sự hình khắc chia ly (nhẹ cũng là cảnh ông nói gà, bà nói vịt, cha ở nhà trước mẹ ở sân sau… ) Trong trường hợp bộ Sát Phá Tham (dù đặc địa hay hãm địa) ở trong vòng Thái Tuế thì còn đỡ (giảm 50 % hiệu lực ), chứ nếu chúng ở ngoài vòng Thái Tuế của bản số (Vòng Thái Tuế là vòng tam hợp cung tuổi của bản số) thì thật là tai hại vô cùng.

5- Đường đời cô đơn

Xem số Tử-Vi, nhiều người có thói quen nhìn ngắm các chính diệu đắc địa hay hãm địa mà luận giải sự tốt xấu. Tôi thấy điều này có vẻ phiến diện, hời hợt, khi đúng khi không. Thật ra vấn đề ngũ hành của chính tinh mới là hệ trọng. Đối với hai cung Phối và Nô là hai nơi quần tụ của mỗi cá nhân trong xã hội, cần phải đẹp đẽ để đời sống thêm ý nghĩa (từ đời tư đến đời công). Cái đẹp ở hai cung Phối và Nô có nghĩa là có bạn đời và bạn đường chung thủy khả tín. Chúng ta hãy chú ý đến các ngũ hành của chính diệu đóng tại cung Phối và Nô như sau :

a)- Đối với cung Phối 

Nếu ngũ hành của chính tinh cung Phối sinh nhập với ngũ hành của bản mệnh thì đời sống vợ chồng lâu dài đầm thắm, nếu cung Phối có chính tinh xung khắc với ngũ hành bản Mệnh thì : anh đường anh, tôi đường tôi, tình nghĩa đôi ta chỉ có thế thôi … Đặc biệt, cung Phối có hai chính diệu (một hạp, một khắc) nghĩa là trong đời tình cảm thế nào cũng hai lần hát khúc tào khang là ít.

b)- Đối với cung Nô

Ngũ hành chính diệu sinh nhập ngũ hành bản Mệnh thì có bản bè, thuộc hạ tốt, trông cậy được. Bằng như ngũ hành chính diệu xung khắc ngũ hành bản Mệnh là kể như đường đời cô độc, không ai là Chung Tử Kỳ của Bá Nha cả. Khi ngũ hành của bản Mệnh sinh xuất ngũ hành của chính diệu tại Nô cung, phải coi như một đời tôi mọi cho bằng hữu.
Thí dụ :Người Mạng Thổ, Nô cung có Vũ Tướng, là kể như không có bạn tri kỷ !. (vì Vũ Khúc là Kim,Thiên Tướng là Thủy, ngũ hành bản Mệnh là Thổ không hợp và lợi gì với Kim và Thủy cả). Còn các bàng tinh và phụ tinh chỉ là chuyện thứ yếu, thêm bớt chút đỉnh ý nghĩa thôi .

6- Bạn là ai ?

Cuốn Tử-Vi nghiệm lý của cụ Thiên Lương có nói : ” Môn Tử-Vi khoa tính tình học tiềm ẩn “, tôi thấy điều này rất chí lý. Muốn tìm hiểu tính tình của một bản số, ta nên vẽ ra 3 vòng Tam hợp là :
– Vòng Thái Tuế : tượng trựng tư tưởng của mình.
– Vòng Thân : Tượng trưng hành động của mình.
Vòng Thái Tuế là Tam hợp của ba cung có tên giống địa chỉ năm sinh. Vòng Mệnh là Tam hợp của ba cung an Mệnh, cung Quan Lộc và cung Tài Bạch. Vòng Thân là tam hạp của ba cung liên quan với cung an Thân. Sau đó, ta ghi nhận ngũ hành của mỗi vòng :
– Hợi Mão Mùi là Mộc;
– Dần Ngọ Tuất là Hỏa;
– Thân Tí Thìn là Thủy;
– Tỵ Dậu Sửu là Kim.
Rồi lý luận theo tám trường hợp kể sau :
– Vòng Mệnh cùng hành với vòng Thái Tuế, còn Vòng Thân ở thế ngũ hành tương khắc, là người ngụy quân tử nói hay mà làm điều ác hiểm (giống như vai trò Nhạc Bất Quần trong Tiếu Ngạo Giang Hồ của Văn sĩ Kim Dung)
– Vòng Thân cùng hành với vòng Thái Tuế, còn Vòng Mệnh ở thế ngũ hành tương khắc, là người nói dữ dằn nhưng hành động lại quang minh chính trực (như mẫu người Từ Hải trong truyện Kiều)
– Vòng Mệnh, Vòng Thân cùng hành với vòng Thái Tuế : tốt nhất, quân tử chính danh.
– Vòng Mệnh cùng hành với Vòng Thân nhưng xung khắc ngũ hành với vòng Thái Tuế, là người chung thân bất mãn, lãnh tụ của đối lập, thích nghi và làm điều ngang trái.
– Vòng Thái Tuế sinh xuất vòng Mệnh nhưng Vòng an Thân lại sinh nhập Vòng Thái Tuế, là mẫu người cực kỳ khôn ngoan, chủ trương nhượng bộ trong lý thuyết rồi lấn lướt trong hành động.
– Vòng Mệnh cùng hành với Vòng Thân nhưng sinh nhập vòng Thái Tuế là người luôn chủ trương lấn lướt tha nhân, chuyên nghĩ và xếp đặt chuyện ăn người, mẫu người tham vọng.
– Vòng Mệnh cùng hành với vòng Thân nhưng được Vòng Thái Tuế sinh xuất là người hiền lành đến nhu nhược, luôn cam phận thiệt thòi (một sự nhịn, chín sự lành).
– Vòng Mệnh sinh nhập Vòng Thái Tuế, rồi Vòng Thái Tuế sinh xuất Vòng Thân là người nói hay làm dở, nói nhiều làm ít đa lý thuyết, thiếu thực hành, dốt hay nói chữ.

7- Nên sống hay chết 

Đời có vinh kẻ nhục, số Tử-Vi cũng có những nét bàng bạc đồng sao mà dị nghĩa, cả hai người nhe răng nhưng người này cười mà kẻ kia lại khóc. Đó là trường hợp bộ ba Mã-Khốc-Khách. Nhiều sách đều khẳng định hạn gặp Mã-Khốc-Khách là vận tốt, tôi đã kiểm nghiệm thấy không đúng mà phải luận giải thế tương quan giữa ngũ hành của Mã với hành của Mệnh trước tiên đã, nếu thấy Mã phò người là thì mới là nhạc ngựa khánh vàng reo vui, còn thấy Mã hại người thì chỉ là tiếng kèn trống đám ma thôi (hoặc đến hạn đó gặp nhiều cái rủi ro đưa tới như bệnh, tật, mất xe, hao tài tốn của, nhiều chuyện bực mình … )
Thí dụ : Người tuổi Ngọ, mạng Mộc Mã ở cung Thân (Mã Kim) vậy là Mã hại người. Ôi ! còn ghê rợn nào bằng hạn Mã-Khốc-Khách, khóc dở, mếu dở … Người tuổi Dần, mạng Thủy, Mã đóng ở cung Thân (Mã Kim), đây là Mã phò người, nên gặp hạn Mã-Khốc-Khách là đến hồi thái lai vậy. Từ đó mà suy luận rộng thêm ra các trường hợp khác

8- Sung sướng hay đau khổ 

Khi nào chính diệu xung chiếu được coi như chính diệu tọa thủ ở cung vô chính diệu ?
– Khi nào Vòng tam hợp của cung vô chính diệu có hành khắc chế được hành của Vòng tam hợp cung xung chiếu có chứa chính diệu .
Thí dụ : Mệnh vô chính diệu tọa thủ ở cung Dậu (vòng tam hợp là Tỵ Dậu Sửu : Kim). Cung xung chiếu là Mão (vòng tam hợp Hợi Mão Mùi : Mộc) chứa hai chính diệu Thái Dương và Thiên Lương. Vậy vòng Kim khắc chế vòng Mộc, nên chiếm đoạt được hai chính tinh Thái Dương và Thiên Lương đem về cung Dậu xử dụng. Ngược lại nếu hành của cung vô chính diệu bị hành của cung xung chiếu áp đảo thì kể như “Hư không chi địa” hoàn toàn, lúc này cung vô chính diệu lại càng lâm nguy và dễ dàng để cho các “Hung tinh chiếu lược” hoành hành.

9- Nhận diện ác quỉ 

Cụ Hà-Lạc Dã Phu Việt-Viêm-Tử trong ” Tử-Vi Áo Bí ” đã đề cao vai trò của bộ Tả Phù và Hữu Bật. Thật tình mà nói, thì hai sao này là những ” gián điệp hai mang ” nghĩa là nó vừa hữu ích mà vừa nguy hiểm khi tìm biết tánh nết của một người qua bản số Tử-Vi. Khi Tả-Hữu đóng vào vòng Thái Tuế có hai trường hợp xảy ra :
– Nếu trong vòng Thái Tuế không có Địa Không, Địa Kiếp, Hóa Kỵ, Đà La, là người chính nhân quân tử.
– Nếu trong vòng Thái Tuế có thêm Không, Kiếp, Kỵ, Đà thì hẩm hiu cho người có tài mà không có thời (sinh bất phùng thời )
Riêng trường hợp hai sao Tả Hữu đứng ở thế đối lập với vòng Thái Tuế hay đứng ở thế sinh nhập vòng Thái Tuế [Ví dụ : tuổi Ngọ, vòng Thái Tuế là Hỏa và hai sao Tả-Hữu đóng cung Mùi (thuộc hành Mộc)] thì dù có thêm Không, Kiếp, Kỵ, Đà hay không vẫn là hạng hữu tài vô hạnh, làm điều quấy đảo thiên hạ.

10- Anh Hùng chiến trận 

Sao Phá Toái chỉ chịu đứng ở ba cung Tỵ-Dậu-Sửu. Nó tượng trưng cho sự ương ngạnh, thích làm điều phá tán, vỡ đổ (giống như nhân vật Na-Tra trong chuyện Phong Thần). Sao này coi như con đẻ của Phá Quân, nên khi Phá Toái đồng cung với Phá Quân thì kết hợp thành sức mạnh vô song (tương tự như Vũ Khúc gặp Văn Khúc) chủ về võ nghiệp thời danh. Nếu vòng Thái Tuế lại chứa ” Toái Quân lưỡng Phá ” này thì không cần phải nói nhiều : rõ ràng là bậc anh hùng trong thiên hạ, ấn chức nguyên nhung trao vào tay này không hổ thẹn chọn lầm người.

Tóm lại, để kết luận cho bài Tham luận này, ta có thể tạm bắt chước người Tây Phương để nói rằng :” Đưa Lá số Tử vi của bạn đây, tôi sẽ nói bạn là ai ! “

Mệnh Chủ - Thân chủ của tác giả Ma Y Cung

Từ tài liệu quyển thượng Số Tử vi kinh nghiệm của Quản Xuân Thịnh

1-Thân chủ

- Tuổi Tý Thân chủ LINH TINH
- Tuổi Ngọ Thân chủ HỎA TINH
- Tuổi Sửu-Mùi Thân chủ THIÊN TƯỚNG
- Tuổi Dần Thân Thân chủ THIÊN LƯƠNG
- Tuổi Mão Dậu Thân chủ THIÊN ĐỒNG
- Tuổi Tỵ-Hợi Thân chủ THIÊN CƠ
- Tuổi Thìn-Tuất Thân chủ VĂN XƯƠNG

2- Mệnh chủ

- Tuổi Tý Mệnh chủ THAM LANG
- Tuổi Sửu-Hợi Mệnh chủ CỰ MÔN
- Tuổi Dần-Tuất Mệnh chủ LỘC TỒN
- Tuổi Mão-Dậu Mệnh chủ VĂN KHÚC
- Tuổi Tỵ-Mùi Mệnhchủ VŨ KHÚC
- Tuổi Thìn-Thân Mệnh chủ LIÊM TRINH
- Tuổi Ngọ Mệnhchủ PHÁ -QUÂN

Ví dụ : Người tuổi Hợi, mệnh chủ CỰ MÔN và Thân chủ THIÊN CƠ. Tìm sao CỰ MÔN và THIÊN CƠ đóng đâu, biên chữ Mệnh chủ và Thân chủ vào (ngày nay, các nhà Tử vi thường ghi vào giữa cung trung tâm của Lá số đê dễ theo dõi). Hai sao này can hệ ảnh hưởng rât lớn đối với cuộc đời mình
Và ở 1 bài viết khác trên mạng, ngoài phần chỉ cách an, họ có nói ý nghĩa trong việc luận giải.


1/ Mệnh / Thân chủ tinh nhập Mệnh / Thân cung :Là cách Long quy đại hải bên trên.

2/ Nhập BÀO CUNG :
Thường là được Anh em trợ lực , nếu Cát ( có Cát tinh / Cáchcục tốt ) = Anh em hòa thuận , giúp nhau. Hung = Bất hòa , thiếu trợ giúp.

3/ Nhập NÔ :
Nô bộc thường là Cung thấp kém , dù có Cát tinh , mỹ Cách cũng lao tâm phí lực

4/ Nhập DI :
Di chuyển , biến động thường xuyên . Cát = Tăng lợi , Hung = giảm lợi .

5/ Nhập ĐIỀN :
Là Tài khố , cho nên Cát = Tăng gia sự tích tập của Tài sản , Hung = Giảm thiểu, mất mát , ưu lo về Tài sản .

6/ Nhập TỬ :
Cát = Tăng điều Tốt ,Con cháu hiếu thuận , hưng vượng , có thể nhờ vã con cháu khi lớn tuổi .
Hung = Giảm Hung .

7/ Nhập PHỐI :
Phu xướng phụ tùy , vợ chồng hòa hảo .Cát = Tăng Cát . Hung = giảm Hung.

8/ Nhập ÁCH :
Hung = Tật bệnh . Cát = Hoàn cảnh làm việc và thể lực tốt ,thiếu niên có thể phát Tài lộc .

9/ Nhập TÀI :
Cát = có cơ hội / khả năng kiếm tiền và dễ phát Tài .Hung = giảm Hung , khó có cơ hội kiếm tiền , thu nhập không cao …

10/ Nhập QUAN :
Cũng tựa như nhập Tài cung , dễ có cơ hội Thăng quan tiến chức , có Tài năng , có thể dựa vào sự nghiệp để phát triển . Hung = giảm Hung , công danh thấp kém , khó thành công hoặc muốn thành công phải trầytrật .

11/ Nhập PHÚC :
Mệnh chủ nhập Phúc = về phương diện tinh thần , cuộc sống khá thoải mái , hạnh phúc .Thân chủ nhập Phúc = Hưởng phước ,an nhàn , lười lao động hoặc ít dịp được lao động .Nếu Cát = Nhập Quýcách .

12/ Nhập PHỤ :Mệnh chủ nhập Phụ = Lúc nhỏ được Cha / Mẹ chăm sóc , ưu ái 1cách đặc biệt .Thân chủ nhập Phụ : Khi lớn vẫn tiếp tục được Cha Mẹ chăm sóc , có khả năng chung sống với Cha Mẹ sau khi lập gia đình …Hoặc thường lo lắng , chăm sóc cho Cha Mẹ

KHI Thân / Mệnh chủ đồng cư 1 Cung thì coi như Tâm hồn ( tinh thần )vàthể lực của mình đều đặt trọng tâm vào Cung đó , Cung này biến thành Cungcó thể nói là tối quan trọng trong việc truy cầu suốt đời mình ( có truycầu được hay không là chuyện khác , là do Cát Hung của Cung này ra sao vàThân / Mệnh chủ có ngộ Sát tinh , Không – Kiếp … Không vong …gì hay không) .

Nếu cung đó là Mệnh / Thân cung thì lúc này Thân / Mệnh chủ có thể trựctiếp đứng ra quản trị lá số ( Trên quyền lực của cả Chính tinh ), nhưngđiều này chỉ là lý thuyết , chưa được kiểm chứng rộng rãi .

Đối với Chính tinh : Thì kết hợp với TC/ MC để xét đoán về Tư tưởng /Hình dáng / Tính tình ..

Đối với TRUNG/ TIỂU TINH thì xét đoán theo Tổ hợp (Bộ sao / Công thức).

Ví dụ :

Mệnh cư Tý có Riêu – Kỵ hợp chiếu , MC là Cự môn (Mệnh cung không có Chính tinh là Cự môn ), thì thưở nhỏ có lần (hoặc 2,3 lần) bị té sông ,té biển gần chết . Vì đã vô tình hình thành cách Riêu Cự Kỵ = bị Thủy nạn, nếu hội tại cung Sửu thì có thể té xuống chỗ nước có bùn , đá , hay aohồ hoang vu (Sửu cung = vu đàm , chỗ đất bùn , lầy lội ).


3.Mệnh cung thiên can


MỆNH CUNG có Địa chi và Thiên Can , xưa nay chúng ta thường sử dụng Địa chi để luận đoán mà nhiều khi quên mất Tính cách của Thiên can . Nay xin phụ bổ 1 ít Tính chất của Thiên Can của Mệnh cung ( MC ) .
Như vậy , chỉ cần biết MC Thiên can của 1 người là ta có thể đoán sơ được vàiCá tình căn bản của họ mà chưa cần phải nhìn vào lá số .

Làm thế nào để biết Mệnh cung Thiên can là gì ?

Dùng Lịch của Năm sinh mà truy , ví dụ sinh năm 1980 , Mệnh cung tại THÌN thì Mệnh Can ( Mệnh cung Thiên Can ) là CANH .
Can Chi của Mệnh cung như vậy là Canh Thìn , Canh Thìn có Nạp Âm là KIM , vàKim ở đây chính là CỤC số .
Nếu không thì dùng Ngủ Hồ độn :

GIÁP KỶ chi niên BÍNH tác đầu .( BÍNH là Thiên can Tháng Giêng )
ẤT CANH = MẬU ( Mậu là Thiên can của Tháng Giêng , từ đó suy ra những tháng tiếp theo )
BÍNH TÂN = CANH
ĐINH NHÂM = NHÂM
MẬU QUÝ = GIÁP .

Mệnh Can còn có những đặc tính sau :

MỆNH CUNG là GIÁP =
Là người có cá tính độc lập , độc lai độc vãng , không thích ai bao che cho mình , giúp ai thì giúp nhưng cũng không muốn vướng bận .

ÂT =
Thường được phái nữ chung quanh bao che và ủng hộ , nhưng vẫn thích tính cách độc lập , cuộc sống thường dễ chịu , có thể khắc Mẹ/ Vợ .

BÍNH =
Đàn ông thường được Mẹ/ Vợ / Tình nhân / bạn bè nữ giới / nữ chủ nhân giúp đỡ.Nhưng dễ bị hiềm khích .

ĐINH =
Có tính cách độc lập , dám làm dám chịu , không sộ hậu quả cũng như hậu hối.

MẬU =
Giúp đỡ, che chở cho người thì nhiều , mà thọ lãnh sự giúp đỡ của người thìít ,hay nể/sợ đàn bà , cá tính ổn trọng thâm trầm , nhiều cao vọng .

KỶ =
Cũng thường bao che người khác , người khác thường làm hao phí tiền bạc củamình .hoặc dễ bị lường quịt tiền bạc .

CANH =
Thích tư thế độc lập , giúp người mà không mong người giúp .

TÂN =
Thích thể diện , trọng tình cảm , có tâm hồn nghệ thuật .

NHÂM =
Tính cách độc lập và tự phụ rất cao , nắm được Thiên thời nên dễ chiếm tiện nghi .

QUÝ =
Dễ bị hao tổn , thích biến động , bỡi Quý là Can duy nhất không muốn dựa vào thế lực của Thiên / Địa / Nhân mà chỉ trông mong vào sư nổ lực của chính mình, cho nên ưa thích những ngành nghề tự do , khởi phục cao độ .

*** TAM TÀI phối với MC THIÊN CAN :

Các Lý Thuyết về TAM TÀI lâu nay bị bưng bít , 1 vài Trưởng lão thủ đắc đượcchiêu Tam Tài cứ lâu lâu đem ra HÙ 1 tiếng làm bọn Hậu bối giựt mình , chơi như vậy là không công bằng , nên hôm nay tui xin được công bố , vì thế Quý vị không nên xem thường Chiêu này , nếu không có chỗ dùng tại sao người ta lạidấu kỹ như vậy ???

GIÁP ẤT BÍNH = Thiên .
ĐINH MẬU KỶ = Địa
CANH TÂN NHÂM = Nhân .
Thiên Địa Nhân
QUÝ là chỗ Vị trí không dựa vào thế lực của THIÊN / ĐỊA / NHÂN ( TAM TÀI).

Ví dụ muốn biết GIÁP là gì , ta thấy theo chiều NGANG thì GIÁP = Thiên.
Từ chữ GIÁP nhìn theo chiều DỌC xuống dưới cùng ta thấy chữ Thiên .
Như vậy GIÁP = Thiên chi Thiên .

KỶ , theo chiều Ngang = Địa / theo chiều Dọc = Nhân .
Vậy KỶ = Địa chi Nhân .

THIÊN = Thiên thời
ĐỊA = Địa lợi
NHÂN = Nhân hòa

Cứ dựa theo ý của 3 chữ trên mà diễn đạt .

HÀNG NGANG LÀ CẤP SỐ .
HÀNG DỌC LÀ BẢN VỊ

* HÀNG DỌC = BẢN VI :


1/ GIÁP ĐINH CANH = THIÊN THỜI
2/ ẤT MẬU TÂN = ĐỊA LỢI
3/ BÍNH KỶ NHÂM = NHÂN HÒA


GIÁP ĐINH CANH nắm được THIÊN THỜI vì có BẢN VỊ là chữ THIÊN .
ẤT MẬU TÂN nắm được ĐỊA LỢI vì BẢN VỊ là chữ ĐỊA .
BÍNH KỶ NHÂM nắm được NHÂN HÒA vì BẢN VI là chữ NHÂN .


* HÀNG NGANG = CẤP SỐ .
Chữ THIÊN/ ĐỊA / NHÂN theo hàng NGANG có thể hiểu là THƯỢNG / TRUNG / HẠ , VÌĐỂ CHỈ CẤP SỐ .

*** ĐIỂM CHÍNH YẾU LÀ HÀNG DỌC / HÀNG NGANG CHỈ LÀ CẤP SỐ .

Như chữ ĐINH , Bản vị là THIÊN cho nên nắm được THIÊN THỜI , và có Cấp số làĐỊA ( TRUNG ) Nên gọi là ĐỊA chi THIÊN = Có được Thiên thời , nhưng chỉ ở mứcTRUNG ĐẲNG . Chưa phải là Cao nhất vì cao nhất là Thiên chi Thiên .

Như chữ TÂN = ĐỊA LỢI ,
Nhưng Địa lợi ở CẤP ĐỘ nào thì xem HÀNG NGANG = NHÂN ( HẠ ĐẲNG ).

Ví dụ MC TC có NHÂM = Nhân ,
Có nghĩa là người này nắm được , sở hữu được tính Nhân hòa , tức là được lòng người chung quanh ( Bà con, hàng xóm .. tuy rằng ở Mức độ không cao vì chỉ cóCấp số là NHÂN ( HẠ đẳng ).

Nếu QUAN có chữ NHÂM = Được cấp trên đề bạt / đồng nghiệp giúp đỡ ..v.v

TÀI có chữ NHÂM = Tiền bạc làm ra là nhờ yếu tố nhân sự, nhân hòa , chẳng hạn như mở Quán Phở , tài nghệ nấu nướng thì dưới trung bình ,quán lại ở trong hẻm nhưng vẫn sống được vì cả xóm đa số đều ủng hộ.

Như vậy khi MC TC = NHÂM , tức đương sự nắm được yếu tồ Nhân hòa .

NHÂN chi THIÊN = Nắm được THIÊN THỜI , nhưng ở Mức THẤP NHẤT ( chữ NHÂN ) .

TAM TÀI ỨNG DỤNG TRONG ĐẠI/ TIỂU HẠN :

Ví dụ :

LƯU ĐẠI HẠN QUAN có TC = ĐINH , Tức L.QUAN được hưởng Thiên thời , nhưng nếuTiểu Hạn là các năm NHÂM / QUÝ thì Thủy sẽ khắc Hỏa của ĐINH làm cho GIẢM /hoặc MẤT Thiên thời .

Như LƯU ĐẠI HẠN TÀI có TC = ẤT , tức L.TÀI hưởng được Địa lợi , nếu Tiểu hạn là năm TÂN , Kim khắc Mộc ,làm giảm mất phần Địa lợi trong Cung Tài .

Cũng vậy , Tiểu Hạn tại Cung Dần có chữ BÍNH , tức được Nhân Hòa , nhưng nếu đó là năm 1992 = Nhâm Thân , thì Nhâm sẽ khắc Bính làm mất đi lợi thế Nhânhòa . ( Phải an Thiên Can theo Năm sinh, bắt đầu từ Cung Dần chạy Thuận vòng cho đến cung Sửu )

Ngược lại , những năm nào SINH cho Tam Tài thì Tốt , cứ theo lý Ngũ Hành sinh khắc mà suy .

NGUỒN GỐC CỦA TAM TÀI:

THIÊN Khai tại TÝ
ĐỊA Khai tại SỬU
NHÂN Khai tại DẦN

Tý Sửu Dần 3 Cung là nơi khai thủy của Tam Tài , Tử vi là môn nghiên cứu về Nhân sự , mà Dần là cung khởi thủy của Nhân , do đó lấy Dần làm Chính cung để định Thân/ Mệnh .

CHỖ SỞ CƯ CỦA TAM TÀI:

THIÊN cư tại TÝ NGỌ MÃO DẬU = ứng với Thượng Hào .
NHÂN cư tại DẦN THÂN TỴ HỢI = Ứng với Trung Hào .
ĐỊA cư tại THÌN TUẤT SỬU MÙI = Ứng với Hạ Hào

Do vậy , cứ theo Đia chi mà nói thì nói thì cứ mỗi TAM HỢP đều có đủ Tam Tài.

ỨNG DỤNG CỦA TAM TÀI:

MC Tam Tài dùng xem xét số phận 1 người được hưởng Thiên thời / Địa lợi /Nhân hòa như thế nào , cao thấp ra sao , nhằm giúp quyết đoán Cách cục của 1lá số .

Tại Vận trình ( Đại / Tiểu Hạn ) Tam Tài dùng để xem xét Thời Thế như thế nào, có nên lộ mặt ra ( làm ăn , hoạt động ..) hay không hay nên ẩn nhẫn , nênlàm gì trong Đại/ Tiểu Hạn này , mức độ thành công cao thấp như thế nào.v.v

Tác giả : ma y cung
Nguồn : tuvilyso.net

Thứ Năm, 14 tháng 4, 2016

Nguyên Lý Luận Giải Lá Số

Tác giả: long nguyen quang – vietlyso.com

Trước tiên ta hãy tìm hiểu những đặc tính cơ bản của môn tử vi. Môn tử vi chắc chắn có nền tảng là thuyết âm dương , ngũ hành, lịch pháp và đặc biệt là Thần sát. Theo tôi Thần sát không phải là những hành tinh đang bay vèo vèo trong vũ trụ, mà xét cho cùng Thần sát cũng là sự kết tinh của nguyên lý Âm dương , Ngũ hành cùng với sự mô phỏng qui luật của tạo hóa theo quan điểm của người xưa. Như vậy môn tử vi dựa trên các nguyên lý âm dương tích hợp ( Thần sát ) và các yếu tố âm dương rời rạc theo toạ độ không gian và thời gian để đoán số mệnh. Người giỏi đoán số chính là giỏi phân tích và phán đoán sự kết hợp và tương tác giữa các yếu tố trên . 

Điều cần lưu ý là trong một lá số tử vi có rất nhiều bài toán chồng chéo, cần phải phân biệt rõ các bài toán đó để định hướng luận đoán !
Bây giờ tôi xin đi sâu phân tích các cung trên lá số, vì người luận giải tử vi phải hiểu rõ ngọn nguồn hình thành các cung số thì mới rộng đường luận đoán .

1/ Cung Mệnh và cung Thân:


Đầu tiên phải đả phá cách nhìn nhận " Nửa đời trước ứng với Mệnh, nửa đời sau ứng với Thân " ; " Mệnh tốt không bằng Thân tốt, Thân tốt không bằng Hạn tốt " ... Mà chúng ta phải nhìn nhận rằng Mệnh và Thân là một cặp Thể Dụng tương hổ với nhau . Mệnh và thân đều phản ảnh suốt cả cuộc đời con người chứ không có sự phân chia vai trò trước sau. Mệnh là thể, Thân là Dụng . Và bài toán Mệnh Thân là Bài toán đầu tiên và cơ bản nhất. Nếu nhìn nhận và giải quyết rõ ràng, kỹ lưỡng thì chúng ta đã nắm được 80% tính chất số mệnh của con người . Có lẽ đầu tiên người sáng chế ra môn tử vi chỉ để làm bài toán này, còn chuyện vận hạn là nhu cầu phát sinh sau đó.

Do vậy khi đoán cung mệnh tức là đoán tổng quát tính chất của đương số, kết hợp cung Thân để coi cái hay của mệnh có được phát huy hay không phát huy như thế nào ? Sự cộng hưởng của mệnh Thân như thế nào ? Mệnh Thân chỏi nhau như thế nào ? Dưới quan niệm thể dụng chúng ta sẽ suy luận và tiên đoán nhiều vấn đề trong cuộc đời đương số. 

Điều đáng lưu ý là trên lá số có 6 cung dương và 6 cung âm, Mệnh thân đều hoặc là ở cung dương hoặc là ở cung âm . Đó là môi trường để Mệnh và Thân tương hổ với nhau . Trong 6 cung cùng âm hoặc cùng dương thì chia làm hai nhóm : Nhóm thân cư Mệnh , Tài , Quan và nhóm Thân cư Di, Phúc , Phối ( Phu, Thê ). Nhóm thứ nhất do nằm trong thế tam hợp, nếu mệnh có đủ những bộ sao như Cơ Nguyệt đồng Lương, Tử phủ vũ Tướng, Sát phá liêm tham, Cự Nhật ... thì độ cộng hưởng của mệnh và thân rất cao và đương nhiên là thuận lợi , độ số thành công tăng lên rất cao, đặc biệt thân cư Mệnh . Khi nói đến thế tam hợp cần phải nói đến bộ Thái tuế , Quan phù, Bạch hổ, nói một cách khoa học thì đây là bộ sao chỉ trạng thái năng lượng cao, gặp tổ hợp sao xấu thì hoạ càng mạnh, gặp tổ hợp sao tốt thì phúc càng nhiều !( vấn đề vòng thài tuế tôi sẽ bàn sau) Còn nhóm thứ hai thì Mệnh Thân không nằm trong thế tam hợp, đó là yếu tố bất lợi trong việc không liên kết được các bộ sao trong thế tam hợp, mệnh Thân thường đóng ở các bộ sao khác nhau, nhiều khi là chỏi nhau, như vậy là bất lợi, hoạ nhiều hơn phúc !

2/ Cung Thiên Di :

Như đã trình bày ở phần trên Cung mệnh và cung Thân có mối quan hệ thể và Dụng nhưng đây là mối quan hệ nội tại của Mệnh, vẫn còn một Dụng của Mệnh nữa, đó là cung Thiên Di . Thiên Di và Mệnh là mối tương hổ nội ngoại đi kèm với tính chất đối xung của địa chi . Như vậy cung Thiên Di có thể xem là cung Thân thứ hai .

Do vậy cũng nên xoá bỏ quan niệm đơn giản cung Thiên Di là chỉ sự di chuyển ! Phải hiểu rằng cung Thiên Di chính là một cung tương hổ với mệnh, ở cung này cũng đem nguyên lý thể Dụng ra xem xét mà định lượng cát hung, lợi hại . Nếu Thân cư Thiên Di thì ý nghĩa chế hoá tương hổ với cung Mệnh càng tăng . Góc độ nội ngoại , chủ khách nên được đặc biệt xét đến đối với cung thiên di.

Mệnh có Chính tinh, bàng tinh sáng sủa cung thiên Di cũng vậy coi như trong ngoài đều đẹp, độ số tốt tăng cao . Mệnh vô chính Diệu, Thiên di sáng sủa chỉ là tốt bậc thứ, vì như vậy là khách lấn chủ, chủ chỉ "có tiếng mà không có miếng", như vậy thà rằng Mệnh sáng sủa tốt đẹp cung thiên di vô chính Diệu thì đương số gặp nhiều may mắn do tự thân có, ngoài xã hội ít người chống đối mà cũng ít người nâng đỡ . Nếu thân cư Thiên di thì người hướng ngoại, ảnh hưởng xã hội nhiều hơn gia đình, điều này phải quyết đoán chắc chắn . Thân cư Mệnh thì ít ảnh hưởng bởi tác động bên ngoài, chủ động về tư tưởng và hành động, nếu mệnh sáng sủa, cát tinh ứng hợp thì địa vị cao thăng, nếu thêm Cô thần, quả tú , trong mệnh nữa thì thường chuyên quyền , chủ quan. Nếu mệnh tối hảm thì trở thành người tự kỷ, thường hay cam chịu nhưng xem ra vẫn có lập trường...
Ngoài ra còn phải để ý đến thế Sao hay nhóm Sao của mệnh và Di để luận đoán . Ví dụ Mệnh có Phá quân + Tuế phá, Di có Tử vi - Thiên Tướng + Thái tuế thế là không thuận rồi, Dụng quá mạnh lấn áp Thể, cuộc đời có nhiều ức chế, khó thành công lớn, nếu làm chính trị thường hay thất bại ! Chỉ nên an phận làm công nghệ, doanh thương thì tuỳ vào bàng tinh sáng sủa hay không để luận thành đạt hay thất bại .

Sự việc muôn màu muôn vẽ, nhưng cứ bám theo nguyên lý đối đãi của Thể dụng mà luận đoán thì ít khi sai lệch . Như vậy thì cung Thiên di và cung Thân chính là môi trường của Mệnh, cung Di cũng là tượng trưng cho xã hội, là sự di chuyển ...Luận Mệnh ,Thân , Di có thể biết tiền đồ của đương số, phùng thời hay thất thời, hoạ hay phúc tìêm ẩn trong đó, chỉ chờ vận hạn thích hợp là xảy ra. Nghiên cứu kỹ Mệnh,Thân, Di là bước cơ bản để định hướng cho luận giải vận hạn của tương lai !

3/ Cung Phúc đức :

Nhiều sách thường cho rằng xem số thì đầu tiên phải xem cung phúc đức. Nhiều môn phái rất đề cao cung phúc đức, cho rằng cung phúc đức tốt xấu là độ số gia giảm tốt xấu cho lá số. Việc này đúng hay sai? Chúng ta hãy khoan triết lý sâu xa cái đã ! Trước tiên chúng ta hãy giải quyết một vấn đề to bằng cái tủ đứng thường kê vào miệng các bậc cao thủ tử vi ! Đó là thứ tự sắp xếp các cung ! Đây là vấn đề mà tôi thấy cần phải làm rõ trước khi đi sâu vào luận giải các cung.

Gần đây trong một quyển sách của một học giả tiếng tăm đã cố gắng giải thích thứ tự các cung số bằng qui luật của vòng tràng sinh, theo tôi thì lý thuyết này chưa vững và còn nhiều gượng ép ! Trước quyển sách này thì còn một vài quyển của một vài vị tiền bối cũng đã cố gắng giải thích nhưng tôi không muốn nêu ra e rằng gây những cuộc tranh cãi vô bổ !Theo tôi thứ tự các cung số có một cái lý rất hiển nhiên và giản đơn và tôi sẽ trình bày như dưới đây.

Trong lá số tử vi tôi nhận thấy có 3 nhóm người được thể hiện trên các cung số như sau :


- Mệnh, Phụ mẫu , Phúc đức.
- Huynh đệ, Phu- Thê, Tử tức.
- Thiên Di, Nô bộc.


Trong tử vi thì lấy Mệnh làm chuẩn để xét các cung số khác, đó là nguyên tắc thứ nhất. Nguyên tắc thứ hai đó là áp dụng chiều thuận là chiều từ âm sang dương, trong đó mệnh làm ranh giới giữa âm và dương.( Chắc các bạn cũng có cảm nhận tương tự trong phần giải thích về cách an Tiền Kình hậu Đà mà tôi đã trình bày ).
Nhóm thứ nhất là nhóm người tiền định ắt phải có trước, do đó đặt phía trước mệnh theo chiều thuận.( Trước đây tôi đã dùng giả thiết khí đi theo chiều nghịch để giải thích sự hình thành các cung từ cung phúc đức nhưng tới bây giờ thấy gượng ép và không nhất quán !) Do vậy nên, đầu tiên phải có Mệnh, tiếp theo là Phụ mẫu những người hiển nhiên phải có trước ta, tiếp theo phụ mẫu là cung phúc đức ( ông bà , giòng họ, âm phần ), những người hiển nhiên có trước cha mẹ của ta. Cha mẹ, ông bà là những người mà ta không có quyền lựa chọn, do căn duyên mà ta tự tìm đến , do đó những lực lượng này ứng với phần dương.
Nhóm thứ hai là nhóm người đến sau, một người có thể không có anh em, vợ con cũng được. Những đối tượng do căn duyên giữa họ và ta mà họ tìm đến ta, cũng có thể có , cũng có thể không do đó ứng với phần âm, lần lượt ở phía sau cung mệnh. Một người từ nhỏ lớn lên phải có anh em, sau đó mới lấy vợ, chồng, sau đó mới có con cái. Do vậy sự xếp đặt các đối tượng này theo các cung số như một điều hiển nhiên cơ bản.
Nhóm thứ ba, nhóm này không đi theo qui luật của nhóm thân nhân của đương số, nhóm này tuân theo nguyên tắc nội ngoại, lấy cung Thiên di làm trung tâm. Như đã nói ở trên, cung thiên di chính là hoàn cảnh xã hội, thể hiện các hoạt động con người bên ngoài của đương số. Cung Nô đối cung huynh đệ, đó là anh em, cộng sự bên ngoài xã hội, do đó có lần tôi đã ví huynh đệ như tỷ kiên còn nô bộc như là kiếp tài trong môn tử bình. Còn cung tật ách thì sao? Cung này đối xung với cung phụ mẫu, nếu phụ mẫu là một đối tượng tích cực đối với ta thì Tật ách mang tính tiêu cực, nó không thể hiện là cha mẹ của ta ở ngoài xã hội, mà là thể hiện những yếu tố mà ta phải gánh chịu như một nghiệp quả - những yếu tố tiêu cực! Như vậy chúng ta có thứ tự sắp xếp cho các cung như sau : Lấy mệnh làm chuẩn, tiến về trước 1 cung là cung phụ mẫu, tiến về trước 1 cung nữa là cung phúc đức ; Cũng lấy mệnh làm chuẩn, lùi về sau 1 cung là cung huynh đệ, lùi thêm cung nữa là cung phối( Phu Thê), lùi thêm một cung nữa là cung tử tức.

Còn các cung Điền trạch, quan lộc và tài bạch nữa nhưng để dành kỳ sau, bây giờ chúng ta quay lại chủ đề cung Phúc đức.

Ý nghĩa sâu xa của cung Phúc đức là gì ? Phúc đức chính là phần âm của mệnh, cung Mệnh chính là phần dương. Cung Phúc đức và Cung Mệnh là một cặp phạm trù âm dương. Trong tướng pháp có phép xem âm chất và dương chất của một con người. Đã có dương tất có âm, âm dương hài hoà tương hổ mới tốt đẹp lâu bền. Đây là quan niệm cơ bản của các môn tướng số, dựa trên thuyết âm dương. Con người chúng ta đang hiển hiện với các hoạt động sống chính là phần dương, như vậy ắt có phần âm tương ứng phối hợp với phần dương thì sự vật mới gọi là sự sống ! Vậy phần âm đó chính là cung Phúc đức của mỗi người. Do đó chúng ta cũng không lạ gì khi có người xem số thì xem cung phúc đức trước, cho rằng cung phúc đức ảnh hưởng độ số của lá số cũng không sai, nhưng cho rằng cung phúc đức quyết định sự tốt xấu của lá số là phiến diện và chưa nhận thức rõ bản chất vấn đề, bởi vì cung phúc đức chỉ thể hiện phần âm của mệnh mà thôi !

Như vậy , ngay trên 12 cung số thôi cũng đã có lắm cặp phạm trù, cặp thể dụng, xác định đúng đối tượng để mà so sánh , phân tích thì chúng ta mới hiểu và luận giải lá số trọn vẹn được.

4/ Cung Tài bạch và cung Quan lộc :

Từ khi con người hình thành cuộc sống cộng đồng, rồi phát triển thành xã hội thì cái khái niệm Tài và Quan mới len lỏi hình thành theo! sự phân chia giai cấp càng mạnh mẽ thì khái niệm Tài Quan càng trở thành đối tượng rõ nét, là tiêu chuẩn đánh giá địa vị xã hội của con người ! Nếu đem tử vi mà chấm cho người nguyên thuỷ thì Tài Quan có nghĩa là gì? Lúc đó người có mệnh Đế vương ắt sẽ làm Tù trưởng của một bộ lạc! Người có cung tài bạch rực rỡ chắc sẽ sở hữu nhiều cái vỏ sò! Còn cung thê Đào hoa mỹ mãn thì sao nhỉ? Lúc đó gặp đâu lấy vợ đó! Chỉ riêng cung Thê thì lúc nào cũng đúng!
Nói chơi vậy thôi ! Chứ rõ ràng là môn tử vi lấy cái lý của tạo hoá mà diễn ra cái cuộc sống con người của chúng ta, vậy cái lý đó như thế nào? 

Nằm trong thế tam hợp với cung mệnh,Tài bạch và Quan lộc là hoá thân của cung Mệnh, phản ánh hai khía cạnh lớn của cuộc sống, đó là tinh thần và vật chất. Xét theo chiều thuận, cung quan ở trước cung mệnh ứng với phần dương, cung tài bạch ở sau cung mệnh ứng với phần âm. Phần dương thiên về tinh thần, do đó Phần dương ứng với cung quan lộc, phần âm thiên về vật chất do đó ứng với cung tài bạch .

hihi, chỉ đơn giản vậy thôi ! Trở về với bản chất sâu xa của sự việc thì mới thấy mọi hình tướng phức tạp đều do con người tự bày vẽ ra mà thôi !

Người có thân cư tài bạch thì cuộc sống nặng về phần vật chất, thân cư quan thì cuộc sống nặng về tinh thần, sự nghiệp. Lượng định số Sao ở hai cung này, loại Sao gì để đoán định cho chuẩn. Xương Khúc, Tả Hữu, Long Phương, Khoa Quyền ... tại cung quan thì cuộc sống thiên về tinh thần, đầu óc thoáng rộng, các sao này lạc vào cung tài bạch thì không hợp cách . Các Sao Lộc đóng ở cung Tài bạch thì đắc cách, tự nhiên giàu có thường thiên về kinh doanh, buôn bán, hay tính chuyện thiệt hơn, nặng về vật chất !Tuần triệt cung quan lộc thì công danh trắc trở, đời sống tinh thần có nhiều phiền muộn, âu lo ! Tuần triệt cung tài bạch thì vật chất hao tổn, tài sản không nhiều, phúc về vật chất không có bao nhiêu !

Nắm rõ ý nghĩa các cung số thì quí vị tuỳ nghi rộng đường mà tán lá số cho hay !


5/ Cung Điền Trạch:

Theo dòng suy luận sự hình thành các cung, chúng ta thấy Mệnh rồi đến phụ mẫu, tiếp theo là Phúc đức, tiếp theo Phúc đức là Điền trạch . Vậy Điền trạch đóng vai trò gì mà nối tiếp sau cung Phúc đức, nối tiếp ở đây có nghĩa là có trước cả cung Phúc đức ?

Xin trả lời :
Cung điền trạch chính là quê hương, bản xứ của đương số, là nơi phát tích của giòng họ . Nghĩa thứ hai của nó mới là nhà cửa, điền sản của đương số ! Người xưa, nhất là người Tàu họ thường quan trọng đất phát tích của giòng họ, nói đến người nào đó là họ thường nói đến quê quán gốc tích, Họ nào thì thường có Quê hương của Họ đó , trong quyển Bách tính có thể hiện rất rõ điều này. Như vậy sự sắp xếp của cung điền trạch kế tiếp theo cung phúc đức là có ý nghĩa rõ ràng : Quê hương rồi mới đến giòng họ, rồi tiếp theo là cha mẹ của ta, rồi mới đến bản thân ta là cung Mệnh . Đó là một trình tự logic mang đậm tính đạo lý và văn hoá.

Tôi , trong quá trình chấm số nhận thấy người nào có cung Điền trạch bị tuần triệt là không được hưởng điền sản của tổ tiên và phải tha hương lập nghiệp . Nếu cung Thiên di bị Tuần triệt nữa thì ý nghĩa đó càng rõ ràng . Nhưng chuyện tha hương lập nghiệp ngày nay đôi khi lại là vinh dự đấy nhé !


Như vậy là trên đây tôi đã trình bày vài dòng suy luận về sự hình thành các cung trên lá số và các tính chất đặc trưng của một số cung số . Việc bàn rông hơn về ý nghĩa các cung thì quí vị có thể tham khảo ở rất nhiều sách tử vi đã xuất bản .

Tôi trình bày đôi điều về Tử vi là nhằm khơi gợi tư duy về môn học này ở một số bạn có tâm nghiên cứu. Vì như chúng ta đã biết, muốn luận giải đúng số tử vi thì phải hiểu rõ ngọn nguồn của tử vi, phải hiểu vì sao có cung Thân, cung Mệnh vì sao từ tháng sinh tính ngược theo giờ là cung Mệnh mà thuận theo giờ là cung an Thân, Vì sao tiểu hạn năm nào không coi tại cung đó mà nhảy sang cung khác để coi...Phải hiểu cho rõ thì mới linh động mà luận số chứ cứ bắt chước theo sách xưa thì cũng có ngày đoán trật !

Có thể nói rằng lý thuyết về tử vi tôi đã tinh thông và hiểu tận ngọn nguồn ! Nhưng tôi chưa trình bày ngay một lúc là vì tôi e rằng đọc giả sẽ có người bội thực ! Và tệ hơn nữa là " Thực bất tri kỳ vị ", các bạn thử tưởng tượng có một người đầu bếp chuẩn bị những món ăn công phu, hấp dẫn nhưng người ăn chẳng biết ngon hay dở, món nào cũng như món nào, nhiều khi lại chê bai này nọ thì có uổng công người đầu bếp kia không ?!


Tôi xin hứa với các bạn yêu thích tử vi tôi sẽ tìm cách trình bày cho các bạn lĩnh hội được môn tử vi dưới nhiều góc độ khác nhau, nếu các bạn thường xuyên theo dõi ắt cũng được một số tuyệt chiêu ! Sở dĩ tôi hứa với các bạn là vì tôi yêu thích môn tử vi và do đó tôi cũng yêu mến các bạn- những người nghiên cứu tử vi, thế thôi !

Tuần Triệt

Chủ đề Tuần Triệt mà tôi đã hứa trình bày với các bạn là một chủ đề rất phức tạp, từ xưa đến nay các sách nói đến rất lờ mờ !

Theo tôi Tuần và triệt là hai con Xúc Xắc chơi trò sấp ngửa - đỏ đen với số mệnh của con người, Mệnh có chính tinh sáng sủa gia thêm tuần triệt thế là hỏng ! Mệnh chính tinh hảm địa , vô chính diệu đóng thêm tuần triệt thế lại hay ! Rồi vận hạn cũng như thế !


Vậy cơ chế của tuần và triệt là gì ?Tôi đã có lần viết về chủ đề Tuần và Triệt nếu các bạn đã theo dõi chắc cũng có một vài ý niệm về" Hai con xúc xắc " này. Nhưng Tuần và triệt không đơn giản như một vài sự định nghĩa nôm na trên một số sách ! Và tôi càng ngạc nhiên hơn khi thấy có những môn phái tử vi không quan trọng về Tuần Triệt !

Hiện nay có nhiều môn phái ứng dụng Tuần triệt theo những góc độ khác nhau, nổi bật lên đó là hai trường phái : Tuần Triệt cố định và Lưu Tuần Triệt. Tôi dám chắc rằng những người đang sử dụng các phương pháp này vẫn đang lúng túng trong quá trình ứng dụng vì trong thực tế thấy có khi đúng thật đúng, có khi lại sai . Vậy nguyên nhân vì sao ?

Do vậy một lần nữa tôi đề nghị chúng ta hãy nắm thật rõ cơ chế của Tuần và Triệt trước khi giải đoán lá số .

Chắc có nhiều bạn thắc mắc tại sao Tôi phải trình bày lý thuyết xong mới giải đoán số , sở dĩ như vậy là vì tôi nhận thấy rằng môn tử vi tồn tại trong một hoàn cảnh thiếu khoa học !!! Thật vậy, tôi đọc các sách từ trước đến giờ, chằng có sách nào trình bày cho ra trò về lý thuyết tử vi, giỏi lắm thì một vài quyển sách cố gắng giải thích nguồn gốc một số sao theo kiểu " lấy thịt lợn nuôi lợn ", gần đây có quyển " Tử vi hoàn toàn khoa học " của Đằng Sơn, mượn lý thuyết của ông Tạ Phồn Trị để giải thích mà cũng chẳng tới đâu ! Người mới học tử vi mà đọc quyển này thì "ngơ ngác như con nai vàng đạp trên lá vàng khô" ! Những lý thuyết được trình bày trong quyển sách này chỉ là sự gượng ép vào những hiện tượng, chỉ thể hiện những bước cuối của một chuỗi vấn đề mà thiếu hẳn sự suy nguyên ngọn nguồn một cách nghiêm túc. Đã vậy còn luôn mồm kêu gọi mọi người biết ơn cái ông Tạ Phồn Trị xa lạ nào đó !!!

Thử hỏi dựa trên một mớ lý thuyết chưa được chứng minh rõ ràng thế kia thì việc ta đoán đúng một lá số sẽ có mấy phần lý thuyết đúng? Có mấy phần ngộ nhận? Trước đây tôi đoán số cho người ta, nhiều trường hợp thấy rất đúng thì tôi cũng chẳng mừng, có nhiều khi đoán sai thì tôi cũng chẳng buồn, đó là vì tôi thấy môn Tử vi còn thiếu một hệ thống phương pháp luận chuẩn xác nên những cái đúng sai lẫn lộn kia chỉ là những hệ quả tất nhiên! Đã vậy có những người đưa lá số của mình ra như là một câu đố để rồi đánh giá vị thầy nào hay, vị nào dở ! Nhưng họ có biết đâu, chính sự thành tâm hợp tác với người đoán số mới là cách làm hay nhất để hiểu biết về số mạng của mình.

Do vậy, trong thời gian gần đây tôi cố gắng nghiên cứu và hệ thống lại lý thuyết môn tử vi. Trên diễn đàn này,Tôi muốn trình bày cho các bạn một hệ thống lý thuyết về môn tử vi mà tôi đã nghiên cứu được, những phần lý thuyết này cũng được trích từ bản thảo của quyển sách mà tôi sẽ xuất bản. Tôi mong rằng khi các bạn hiểu rõ lý thuyết và phương pháp luận tử vi một cách chính xác thì chính các bạn sẽ tự chấm lá số của chính mình, chỉ có các bạn mới tự khám phá ra chính bản thân các bạn, không ai khác có thể làm điều đó cho các bạn! Qua đó môn tử vi mới được các bạn trân trọng đúng mức và có một chổ đứng vững chắc trong xã hội như những ngành khoa học khác. Đó là điều mà những người yêu thích môn tử vi như chúng ta cần phải làm !


Xác định vai trò của Mệnh và Cục :

Tôi trong quá trình nghiên cứu về tử vi đã nhận thấy rằng trong môn tử vi nếu thiếu phương pháp luận về ngũ hành thì việc luận giải sẽ mất phương hướng, muốn luận ngũ hành thì việc đầu tiên phải xác định vai trò của mệnh và cục.sau đây tôi xin định nghĩa ngắn gọn về mệnh cục :

1/Thế nào là mệnh?


ví dụ : một người sinh năm Bính tuất có mệnh là hành thổ, có nghĩa là năm Bính tuất có Bính và tuất nạp âm là hành thổ, hành khí này bao trùm suốt cả năm, do đó người sinh trong năm này bị ảnh hưởng bởi khí thổ - mệnh thổ.

2/Thế nào là cục?


ví dụ: Người sinh năm Bính tuất đó có lá số là thổ ngũ cục có nghĩa là vị trí mà cung mệnh đóng có nạp âm là hành thổ. Vị trí này được thể hiện là vị trí của tháng canh tí hoặc tháng tân sửu trong năm Bính tuất đó, nếu cũng là người sinh năm Bính tuất đó mà là mộc cục thì do mệnh đóng tại các tháng dần mão, tuất hợi.

Như vậy cách xác định hành khí của cục là cụ thể hơn mệnh, và hành khí của mệnh là bao trùm cục. Ta cũng có thể nói nạp âm của năm sinh là Đại Mệnh và hành của cục là Tiểu mệnh .Lúc này ta thấy rằng hành khí của một con người ( theo quan niệm của tử vi) được xác định bởi Mệnh và Cục, nhưng hai vị trí hành khí đó có đặc trưng riêng và không hòa lẫn nhau được. Và điều quan trọng là hành khí của cung mệnh khác hành khí của tháng sinh. Theo tôi người ta có thể so sánh mệnh với tháng sinh để biết được mùa sinh hay không, tháng sinh có khắc mệnh hay không thì được chứ không nên so sánh sinh khắc giữa mệnh và cục vì cục là hành khí có tính chất vi mô, bằng chứng là từ cục ta xác định được các chính tinh, do đó hành khí của cục liên quan đến hành khí của chính tinh thì đúng hơn.
Vì hành khí của mệnh là bao trùm tất cả nên hành khí của mệnh liên quan đến hành khí của các sao là đương nhiên, do đó chúng ta có hai trung tâm điểm về ngũ hành khi luận sự tương tác ngũ hành của các sao, cũng như ảnh hưởng của các sao đến số mạng con người. Hai trung tâm điểm đó là mệnh và cục, độ tương hợp ngũ hành của các Sao với hành của mệnh và Cục là điều rất quan trọng ! Có thể nói nôm na là sự ảnh hưởng của các sao đối với số mạng của đương số giống như một ảnh hưởng thuận nghịch hai chiều, chiều của mệnh và chiều của cục.
Để cho dễ hiểu tôi xin lấy ví dụ : một người Thổ mệnh và Mộc cục, hạn đến các sao hành Thổ đương nhiên là ảnh hưởng đến đương số, khi hạn đến các sao thuộc Mộc , người Thổ mệnh đó có một thời gian ngắn bất ổn sau đó Mộc cục phát huy tác dụng, phản ứng thuận nghịch đổi chiều,các sao mộc vẫn giúp cho đương số thành công. Đây là một trong những trường hợp tôi đã gặp rất nhiều trong thực tế.

Qua những điều trên, tôi có thể nói rằng chuyện cục khắc mệnh không thể gọi là xấu, cục sinh mệnh chưa thể gọi là tốt mà hãy kết luận điều này phối hợp với các sao của mệnh và vận để kết luận. có như vậy mới tránh được những kết luận sai lầm gây ấn tượng xấu cho đương số !

3/ Thêm một kinh nghiệm về Mệnh và Cục :


- Dùng nạp âm của tuổi tức là Hành của mệnh ( Đại mệnh) so với Lệnh tháng sinh để biết độ vượng suy của Mệnh . Từ đó so nạp âm của mệnh với nạp âm của các năm hạn, nếu thấy vượng hay suy thì tính chất của vận hạn cũng phức tạp hay đơn giản tương ứng theo. Ví dụ : Mệnh Hỏa , sinh tháng tí thế là Mệnh bị khắc, nếu gặp nạp âm của năm vận là thủy thì Mệnh càng bất lợi, nếu bộ Sao của vận xấu thì độ số xấu càng tăng, nếu gặp Sao tốt thì độ số tốt cũng giảm !

- Dùng hành của Cục để so với lệnh tháng để biết độ ứng của số có thể hiểu nôm na là độ " ăn số" của lá số . Ví dụ : Hành của Cục bị lệnh tháng khắc thì độ ăn số giảm, có nghĩa là gặp bộ sao tốt mà thấy không tốt bao nhiêu, thấy sao xấu nhưng cũng chẳng xấu bao nhiêu !

Trên đây là các kinh nghiệm mà nhiều khi chấm số thấy hạn của đương số trên lá số tốt quá liền phán là đương số đại phát tài, thăng quan tiến chức nhưng thực tế thì chẳng được bao nhiêu ! do đó mà các " Thầy" cũng nên cân nhắc trước khi "phán "!


Vòng Tràng sinh của Cục .

Hôm nay tôi xin nối tiếp chủ đề Nguyên lý luận giải Lá số bằng một mục rất quan trọng là Vòng Tràng sinh của Cục . Từ trước đến nay có nhiều trường phái về cách an vòng tràng sinh, chính vì nhiều trường phái thì tranh cãi về vấn đề này cũng nhiều ! Xin trình bày vắn tắt một số trường phái đó như sau:

1/ Tràng sinh chỉ khởi từ bốn vị trí Dần , Thân, Tỵ , Hợi Thuận cho Dương nam âm nữ, Nghịch cho âm nam đương nữ.
2/ Tràng sinh khởi từ dần thân tỵ hợi cho dương nam âm nữ và từ tí ngọ mão dậu cho âm nam dương nữ .
3/ Tràng sinh và đế vượng đồng cung cho trường hợp âm nam dương nữ.

Có thể là còn nhiều cách nữa nhưng chốn giang hồ mênh mông nên chưa thể biết hết được ! Tuy nhiên theo tôi các cách an tràng sinh trên chưa đúng ! Và tôi xin được trình bày cách an vòng tràng sinh mà bản thân tôi đã kiểm chứng nghiệm lý được như sau :

- Vòng tràng sinh cho các Cục đều khởi thuận.
- Mộc cục khởi tràng sinh từ hợi .
- Hỏa cục khởi tràng sinh từ Dần .
- Kim cục khởi tràng sinh từ tỵ .
- Thủy cục khởi tràng sinh từ Thân.
- Riêng Thổ cục không nên xét theo quan điểm một vòng tràng sinh liên tục mà chỉ xét độ vượng suy : Vượng tại tỵ ngọ, Tướng tại Thìn tuất sửu mùi, Hưu tại thân dậu, Tù tại Hợi tí, Tuyệt tại dần mão.

Sở dĩ vòng tràng sinh an theo chiều thuận là do hành khí của các Cục là hành khí nạp âm , mà hành khí nạp âm là do tổ hợp số của 4 yếu tố can chi đứng cạnh nhau cấu thành, từ số quí về hành khí, đây là loại hành khí phức tạp khi đã nhìn rõ bản chất của loại hành khí nạp âm thì không có chuyện phân âm dương cho hành khí, cụ thể là hành khí của cục số , chính vì khí nạp âm là một loại khí không thuần nên Vòng tràng sinh của hành khí đặt nặng điểm Sinh, còn mười một vị trí còn lại cứ tự nhiên nối tiếp nhau. An vòng tràng sinh như thế này rất rõ ràng, đơn thuần là xét vị trí vượng hoặc suy của ngũ hành Cục từ đó đánh giá độ số của lá số . Đây cũng là dấu hiệu sử dụng ngũ hành trong tử vi rõ ràng nhất . Tuân thủ đúng nguyên tắc vượng suy của ngũ hành chúng ta sẽ dễ dàng đánh giá sự suy vượng của mệnh và vận đồng thời cũng có phương hướng rõ ràng cho việc Lưu Cục hàng năm khi tính tiểu hạn.


Vòng tràng sinh ứng với mười hai cung số là nguyên tắc cơ bản của môn tử vi. Chỉ cần đánh giá vị trí cung mệnh đóng nằm ở vị trí nào của vòng tràng sinh và độ vượng suy hành khí của nạp âm tuổi với tháng sinh là đủ đánh giá tổng quát cuộc đời của một con người thuộc cấp bậc nào. Do vậy nhìn nhận đúng đắn về vòng tràng sinh là một điều cơ bản quan trọng của người nghiên cứu tử vi !
Đối với những người nghiên cứu tử vi chuyên nghiệp thì bước đầu tiên để luận giải lá số là phán đoán và định hướng lá số này có những tính chất gì phú, quí thọ hay bần hèn yểu...Tìm yếu tố mầm mống trong mệnh thân là những yếu tố nào, điều kiện nào sẽ trở thành hiện thực giống như đã có nhân thì cần phải có duyên rồi mới có quả được. Muốn phán đoán được thì phải tổng quan các cường cung, định tính , định lượng các Sao...Đó là phương pháp chính thống.

Nay tôi xin cung cấp cho các bạn một phép coi ngắn gọn, có thể trả lời sau 5 phút kể từ lúc nhận được thông tin ngày giờ sinh của đương số mà vẫn đảm bảo độ chính xác khả dụng.

1/ Ngựa chạy về đâu?
 

Thiên mã trong mệnh tượng trưng cho cái động của con người, động mà có lợi thì có thể đoán là tốt, công việc hanh thông. Động mà bất lợi thì...dĩ nhiên là thất bại, cuộc đời thua thiệt, sự nghiệp ắt có lúc ách tắc.
Thiên mã nghĩa đen là xe cộ, "you are what you drive", đoán xe cộ sang hèn cũng nói lên chuyện giàu nghèo, sang trọng.
Thiên mã gặp hung họa thì đời có tai biến, nghĩa đen gặp nạn giao thông...
Con ngựa lợi hại lắm đó! Coi số là phải tìm con ngựa ngay.
Thiên mã gặp Hóa lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa , Hóa kỵ là dễ thấy nhất. Cứ trên lá số, lưu đại vận, tiểu vận thấy Mã có lợi là chuyện vui đang tới còn Mã gặp hóa kỵ là chuẩn bị mất việc, thất bại rất rõ ràng.
Cái chiêu này là tuyệt chiêu chuyên trị xem vận hạn từng năm. Nếu ai luyện kỹ thì mới thấy hết cái diệu dụng.


Sau khi đã xem ngựa hay dỡ thế nào rồi thì tiếp tục xác định đó thực sự là ngựa của ai?
Xét tổng quan, ngựa nằm bất cứ đâu trong 12 cung số thì rồi cũng có lúc mình phi ngựa thôi, đó là tới vận mượn ngựa mà chạy. Nhưng Ngựa nằm ở Mệnh Thân, Tài. Quan, Di mới là ngựa thật sự của mình.
- Ngựa ở Mệnh và Di là ngựa chạy mạnh nhất.
- Cung Quan, Tài, cung Thân có ngựa thì tính chất di chuyển yếu đi và cần phải phụ luận thêm cung Mệnh như thế nào. Tuy nhiên các cung này có Mã thì luôn thể hiện sự tài năng, sự sinh động theo ý nghĩa từng cung.
Ví dụ: - Mã ở cung Tài thì tiền bạc lưu chuyển tốt, nói lên sự buôn bán.
- Mã ở cung Quan, công việc có tính cách lưu động, thuyên chuyển tùy sự phối hợp các Sao để đoán.
Đó là xem lá số tĩnh. Cần phải xem lá số động, tức là theo dõi đại vận và tiểu vận với Lưu Thiên mã tương ứng.
- Lưu vận, có Thiên mã gặp Thái dương là "ngựa về với chủ" tức gặp được người đở đầu, bậc đàn anh, về làm việc phò tá cho người đó.
- Lưu Thiên mã đại vận còn thấy được bóng dáng sự biến chuyển của cả đại vận.
Ví dụ: Đại vận tới cung Dần, Lưu Thiên mã đại vận tại cung Thân gặp Tả phù, Hữu Bật chiếu thì đại vận đó được quí nhân giúp đỡ, có bạn hiền phò trợ.
Ví dụ: Thiên mã gặp Thanh long là có cơ chuyển biến cuộc đời, " Ngựa mọc cánh"...
- Thiên mã gặp Hóa Kỵ mới là "ngựa cùng đường" chứ không phải là Mã ở cung Hợi đâu !
Điều quan trọng, nếu ngựa là của mình như đã nói trên thì sự chuyển biến sẽ rất mạnh mẽ và thực sự tác động đến cuộc đời đương số. Nếu các bộ cách của Thiên mã liên quan đến lục thân thì lục thân có biến chuyển. Do vậy việc phân tích Mã của ai rất quan trọng trong luận đoán. Đoán có chính xác hay không cũng tùy vào đó.


Như các phần trên đã nói về Thiên mã, phần động của lá số. Bây giờ nói đến phần tĩnh của lá số. Chú ý đây là phép phán đoán nhanh, chứ phần động và phần tĩnh của lá số không chỉ có vậy.
Sao Thái tuế chính là phần tĩnh của lá số. Thái tuế ví như Hoàng đế, phải yên vị mới tốt, Thái tuế đi với cách cục đầy đủ, vững vàng thì tốt vô cùng, còn Thái tuế gặp cách cục lỏng chỏng, hắc hảm thì báo hiệu vua lưu vong, triều đình tan nát, kết cuộc là bản thân của người có lá số đó bị vạ lây: Nếu mệnh cung sáng sủa thì độ số tốt cũng giảm, nếu mệnh cung xấu thì cầm chắc cuộc đời điêu linh !
Ví du 1: Thái tuế đóng tai ngọ, mệnh cũng đóng tại ngọ có Tử vi miếu địa thủ chiếu. Tử vi tại ngọ là chính vị sáng sủa, Thái tuế đóng tại đấy thì Thái tuế đắc chính vị, độ số may mắn của lá số lớn vô cùng! Ví dụ lá số của Lưu Bang tuổi giáp ngọ hoặc một lá số thực tế cũng tuổi giáp ngọ và Tử vi tai ngọ mà tôi biết, người nay ít học, tuổi trẻ gian khổ nhưng tay trắng lập nghiệp, hiên nay rất giàu có, là một tay chơi đồ cổ có số má...
Tính thêm thì thấy tuổi ngọ Thiên mã ở cung Thân gặp Hóa quyền, là ngựa oai phong quyền hành cho nên năng nổ tháo vát và có uy thế.
Ví dụ 2: Lá số của vua Quang Trung, tuổi nhâm thân, Thất sát tại cung thân thủ mệnh. Thiên mã tại cung di gặp Tử vi Hóa quyền nên công danh và địa vị cái thế!
Chính vì vậy xem qua lá số, coi phần tĩnh phải tĩnh, phần động phải động, cách cục sáng sủa là lá số may mắn, gặp thời, có đất dụng võ. Nếu ngược lại thì cầm chắc gian nan, trở ngại !


Đúng là Phần Tĩnh là cung Mệnh, phần Động là cung Di. Nhưng không chỉ có thế, trong là số còn nhiều yếu tố nói lên điều đó, ví dụ như Thái tuế là phầ tĩnh, Thiên mã là phần động. Nhưng tôi đang nói đến vấn đề phán đoán nhanh lá số nên đang bàn về Thiên mã và Thái tuế thôi.
Thiên mã trong mệnh là nói lên tính chất năng động của Mệnh, ở môi trường nào cũng năng động, dĩ nhiên bao gồm ý nghĩa đi xa.
Thiên mã cung di nói lên tính chất giao tiếp, đi ra bên ngoài, sự đi xa ,..nhưng chưa chắc là người hoạt bát năng động!


Nên nhớ cung mệnh là gốc nói lên những thuộc tính của bản thân còn các cung còn lại là những nhân duyên của Mệnh mà thôi !

Một trao đổi ngắn với KhiemVan

Chào bạn Khiem Van thân mến !
Rất cảm ơn bạn vì những nhận xét tinh tế của bạn ! Sau đây xin trích dẫn và trả lời những vấn đề bạn nêu ra .

1, Tôi thấy từ một số luận đoán thời gian gần đây của anh em (kể cả vụ Tuần châu) thì Tử vi thời hậu công nghiệp này có lẽ đi quá xa sách vở căn bản.

Cũng tại vì sách vở xưa không bày ra hết, nên người hậu học cứ phải suy luận hoài, nhiều khi luận không ra đành biến thành biết bao chiêu mới.

Ví dụ luôn: Nhiều bạn nghiên cứu sâu vào từng sao nhỏ, phụ tinh càng làm phong phú thêm; nhưng đồng thời lại trệch luôn , thành ra nâng tầm các sao này lên làm "chính", không lý giải sao người này làm vua, người kia làm tướng bằng các sao chính... lại đi tìm câu trả lời trong sao nhỏ.

Hay là sự gán gượng theo trường phái Thiên Lương , cái gì cũng áp vòng này vòng kia , để tìm cho được có "được ưu đãi", có "giấc mộng hoàng lương không"...
Cụ TL áp nhân sinh quan sinh động vào TV nhưng vận dụng ở đâu lại là một lẽ khác.


Quả là tử vi thời hậu công nghiệp này biến hóa đủ thứ mà chẳng ra sao cả ! Ngay cả thứ tử vi " nâng bi" các sao nhỏ như : Thiên trù, Thiên tài, Thiên thọ, Lưu Hà, Kiếp sát, Đào hoa, Hồng Loan ... thành những Siêu Sao mang đầy triết lý hơn Chính tinh thì tôi đã không chấp nhận từ lâu!

Tôi chính là một tay chế biến đủ thứ chiêu thức trong tử vi, tôi đã chế ra tới 14 cách tinh tiểu hạn và nguyệt hạn! Ngay cả vụ bà Tuần châu tôi cũng đã ứng dụng một trong 14 cách mà kết quả cũng chẳng ra sao! Nhưng cuối cùng tôi đã quay về với những kiến thức cơ bản, nhờ cuộc hành trình biến hóa va chạm đủ thứ thì lần quay về của tôi lại với một góc nhìn khác, cái nhìn đã ngộ ra nhiều điều mà sách vở chưa từng nói hoặc là đã bị dấu nghề bời các tiền bối! qua đó tôi thấy rằng, việc chế ra chiêu thức này nọ là một điều rất bổ ích và thể hiện đẳng cấp tử vi vì mỗi lần sáng chế như vậy chính là một lần chuyển mình để nhìn nhận tử vi theo nhiều góc độ, có khi nhìn sai nhưng cũng có khi phát hiện ra cái mới, chính những cái mới đó mới làm chúng ta tiến bộ trong học thuật! Và những cái sai mà cuối cùng ta phát hiện ra là ta sai lại khẳng định những kiến thức đã có để chúng ta tự tin mà phán đoán những lá số khác!

Vậy thì những cái sai hay còn gọi những thứ sáng chế không ra sao đó cũng là một thứ có ích, một thứ tất yếu phải có trong quá trình phát triển tư duy học thuật như một con sâu lột bỏ cái xác cũ để hóa thành bướm! Và những cái mới đó là đúng đắn đã được nghiệm lý kỹ càng sẽ được đưa vào sách vở cho hậu thế nghiên cứu! Chẳng hạn bây giờ tôi đã chắt lọc ra được một chiếu thức tính vận hạn rất xuất sắc, nhờ nó mà tôi đã kiểm chứng được rất nhiều dữ kiện của nhiều lá số mà chỉ bằng những kiến thức trong sách vở chúng ta không thể thấy được!

2, Nghiên cứu văn hóa Phương Đông, cần sự suy ngẫm cả lý luận và thực tế có bề dày; hãy khoan viết sách trước 40s.
Bạn hãy đi hỏi hàng trăm nông dân, thợ cày, ông đạp xích lô, bác vá xe lá số của họ...
để tìm hiểu xem Cũng từng ấy sao chính phụ, từng ấy cung, lá số của họ như thế nào. Cung tài quan của họ ra sao, chính tinh phụ tinh (Tam hóa, XK, KV, TP, vòng Thái Tuế, vòng Lộc tồn... ) của họ ở đâu? Nứơc VN, đa phần là nông dân, nghèo, và không chức vị, học hành.

Giải thích cùng một lá số lại sướng khổ khác nhau, chúng ta thường giải thích sự khác nhau về điều kiện sinh sống. Nhưng cụ thể như thế nào. Sao có người vẫn sinh ra ở vùng nghèo khó và lên đô thị học và phát triển, sao người khác cùng quê lại không? Cả một trường học , cả một làng quê nghèo thì số như thế nào?

Bạn hãy dùng cả phương pháp thông kê, và phỏng vấn cho nghiên cứu của mình... Chỉ nhớ tránh đừng hỏi cô nông dân là số cô có phải Vua đang đi ra ngoài cung/ vua của cô gặp cướp/ gặp tướng hay không, thôi.

Một vài lời nếu không phải xem như tôi chưa nói gì.


Đến giờ phút này tôi dám nói rằng tử vi là một khoa học nghiên cứu về con người hoàn chỉnh nhất, nó tự mang trong mình cả môn Triết học ,tâm lý học, Nhân tướng học , xã hội học, thời sinh học, văn học ...Chứ không phải đơn giản là một môn Dự đoán học đâu ! Nói như vậy để nói rằng Tử vi dư sức phân biệt được những con người có lá số khác nhau và những lá số có ngày giờ sinh giống nhau, thậm chí trường hợp sinh đôi cùng trứng!

Có nhiều người hay lấy trường hợp sinh đôi cùng trứng để bắt bẻ văn vẹo môn tử vi nhưng tôi thấy tội nghiệp cho họ vì họ không hiểu được vấn đề mà họ đặt ra, tôi xin trả lời vấn đề này như sau:

- Cùng một ngày giờ sinh thì trên một đất nước có cả trăm ngàn người cùng sinh ra, vậy vai trò của tử vi là gì? Tử vi chính là Thiên cơ, người nào sinh vào thời điểm nào tức là gia nhập vào chu trình biến hóa âm dương ngũ hành vào thời điểm đó . Nhưng mỗi con người có những đặc trưng riêng: Về cấu tạo di truyền, kiểu gen, về vận khí của ông bà cha mẹ, anh em, vợ con, vận khí và phong thủy của địa phương ... Mỗi con người mang cái vốn liếng khác nhau đó tương tác với thiên cơ thì dĩ nhiện vận khí của họ cũng khác nhau chứ? Ngay cả trường hợp sinh đôi cùng trứng thì quá trình phát triển của tế bào trên hai cơ thể sinh đôi này cũng đâu có giống nhau, mà chu trình phát tiển tế bào khác nhau này dẫn đến hai cơ thể đâu có giống nhau mặc dầu nhìn bằng mắt thường vẫn thấy giống nhau ! Ở đây chưa nói đến chuyện Linh hồn khác nhau vì e rằng phải chứng minh thêm chuyện tồn tại của linh hồn! Thế thì hai cơ thể khác nhau thì làm sao có số phận giông nhau, nhưng những điểm giống nhau của hai cơ thể sinh đôi này cũng đưa đến những số phận tương tự nhau! Ví dụ thực tế: Tại thời điểm này có hai anh em sinh đôi người Ba lan một người làm tổng thống còn người kia làm thủ tướng, như vậy thì tử vi cũng phản ánh đúng thực tế đấy chứ!?

Vài dòng chia sẽ!